- Bức tranh chiều tàn trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
- Tác giả: Ong Ong
- Thể loại:
- Nguồn: Ong Ong
- Rating: [K] Mọi độ tuổi đều đọc được
- Tình trạng: Đã hoàn thành
- Lượt xem: 1.930 · Số từ: 2116
- Bình luận: 0 · Bình luận Facebook:
-
Lượt thích: 3 Thời Thu Liễu Giang Diễm Nguyễn
Thạch Lam (1910 – 1942), quê gốc ở Hà Nội, ông có biệt tài viết truyện ngắn không có cốt truyện, như một bài thơ trữ tình. Văn ông thiên về những cảm xúc trong trẻo, giản dị mà thâm trầm, sâu lắng. Đằng sau những trang văn thấm đẫm chất thơ là niềm cảm thương, tấm lòng nhân đạo với những kiếp người nghèo khổ trong tầng dưới của xã hội. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm nổi bật của ông. Nắm bắt khoảnh khắc ngày tàn, Thạch Lam đã vẽ lên cuộc sống đầy ảm đạm mà cũng ngập tràn mơ ước của con người nơi đây.
“Hai đứa trẻ” trích từ tập truyện “Nắng trong vườn” đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía nỗi niềm xót xa đối với những kiếp người nhỏ bé của nhà văn. Ông lựa chọn thời điểm hoàng hôn, khi vạn vật chuẩn bị đi vào trạng thái nghỉ ngơi để bắt đầu câu chuyện. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm, ông không chỉ nắm bắt cái thần thái của cuộc sống con người mà còn của bức tranh thiên nhiên. Tài tình hơn nữa, qua bức tranh phố huyện vào thười điểm chiều tà, Tahchj Lam làm nổi bật lên tâm trạng của nhân vật Liên và có lẽ cũng là nỗi lòng của chính mình.
Tác phẩm mở đầu với những nét gợi đơn giản và huyền ảo về thiên nhiên. Để tô vẽ nên bức tranh của mình Thạch Lam đã dùng cái quan sát rất tài tình. Ông tận dụng hết cả thị giác và thính giác của mình để dựng nên các cảnh và cứ cảnh trước lại mở ra cảnh sau, nâng đỡ, tô điểm. Hoàn cảnh buổi chiều nơi phố huyện bắt đầu với “tiếng trống thu không… từng tiếng một vang ra xa”, tiếng trống thu là tiếng trống đánh dấu sự khép lại của ngày dài, từng hồi tiếng một buông ra nghe thật thảm thiết não nề, đượm buồn. Tiếng trống thu như đang thúc giục gọi buổi chiều man mác. Một không gian yên tĩnh đến nỗi tác giả còn có thể nghe được cả tiếng muỗi vo ve. Và phía xa xa tiếng ếch nhái văng vẳng từ ngoài đồng xa vọng lại. Phía trước nhà là tiếng chõng cũ nát kêu cót két, tàn tạ. Cả đất trời như chan chứa một khoảng không tĩnh mịch, êm ả đượm chút buồn, thê lương đến ảm đạm. Một loạt các âm thanh động cộng hưởng với nhau lại gợi ra một không gian tĩnh lặng, vắng vẻ đến nao lòng. Bút pháp tài tình lấy động tả tĩnh của Thạch Lam thật khiến lòng người rung động.
Cái độc đáo của Thạch Lam ở chỗ ông chẳng cần dùng những nét vẽ cao xa mà chỉ cần phẩy tay vấy hồn cho những cảnh đơn sơ, mộc mạc cũng đã khiến nó trở lên thật tuyệt tác. Bên cạnh những âm thanh đặc trưng nhà văn còn đan xen thêm những đường nét, hình ảnh và màu sắc chân thực của bức tranh phố huyện lúc trời chiều. Đó là “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Mặt trời đang dần nghiêng bóng về phía tây, những ánh nắng không còn chói chang, sức sống nhữ buổi trưa nữa mà đã chuyển dần sang màu đỏ rực, lóe lên lần cuối trước khi lụi tàn. Dấu hiệu của sự lụi tàn đang chập chững buông xuống, bóng tối đang xâm lấn vào từng thớ đất, thớ trời. Màu đỏ vốn là một gam màu tươi sáng nhưng đặt trong ngữ cảnh nó lại gợi ra cái ảm đạm, cô đơn của cảnh sắc, của lòng người. Những đường nét quen thuộc của bức tranh thiên nhiên trời chiều được dựng lên: “dãy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Hình ảnh của dãy tre làng trước mặt cắt hình rõ rệt trên nền trời xám xịt. Đây là một hình ảnh tả thực, khi thời khắc chuyển dần về buổi tối, nhìn xa xăm thu lại vào ánh mắt ta chỉ là cái bóng của cảnh vật, mọi cảnh vật đen lại phản chiếu rõ rệt trên nền trời. Không gian như chỉ bao trùm một màu sắc u tối, nhạt nhòa. Không quá cao sang, không gay gắt mà chỉ bằng những câu văn giản dị, rất đỗi chân thực đã miêu tả rõ nét cái thần và hồn của phong cảnh làng quê Việt Nam, rất đỗi thanh bình, dịu nhẹ nhưng lại u buồn và lặng lẽ nhường nào.
Cảnh thiên nhiên chỉ là khúc dạo đầu để mở ra cảnh sinh hoạt của người dân nơi phố huyện lúc chiều tà. Bức tranh sinh hoạt được mở ra với không gian cảnh chợ tàn: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Không gian yên tĩnh với những hình ảnh ảo não, tiêu điều, thất thơ được liệt kê: đó là rác rưởi, vỏ bưởi, bã mía. Đây là những gì cuối cùng còn sót lại sau khi vãn chợ. Rồi những đứa trẻ nghèo tội nghiệp vất vưởng lom khom trên mặt đất tìm tòi, nhặt nhạnh những gì người bán hàng để lại. Cảnh chợ thế nhưng lại là chợ tàn, chợ buồn, xơ xác đến ám ảnh. Và cái mùi “âm ẩm bốc lên”, cái mùi chẳng mấy là dễ chịu lại cứ “nồng nàn” chìm vào không gian, thế nhưng mùi vị ấy lại quá quen thuộc, đó là mùi của đất quê hương, trở thành một nỗi thắm thiết da diết trong tâm hồn cô bé Liên. Trong bức tranh cảnh sinh hoạt nổi bật lên với hình ảnh của những kiếp người tàn. Cuộc đời những con người ấy là chuỗi dài những cơ cực, khổ đau, họ bị cuộc sống nghèo nàn bủa vây, đeo đuổi. Bắt đầu từ những đứa trẻ con nhà nghèo ở khu bên chợ, rồi đến mẹ con chị Tí loay hoay, mệt nhọc với gánh hàng mà cũng chẳng mấy ăn thua: “Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, dù chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Thương cảm hơn là bà cụ Thi với tiếng cười ám ảnh, chua chát và đầy ngao ngán. Phải chăng vì cuộc đời bà đã quá khổ, đã nếm trải đủ đắng cay, nỗi nước mắt đã cạn, giờ đây chỉ biết lấy tiếng cười than thay cho nỗi lòng xót thương. Chính chị em Liên còn bé nhưng đã phải đối mặt với sức lo cơm áo gạo tiền. Vốn cái tuổi được ăn chơi học hành nhưng các em đã phải phụ mẹ bán hàng kiếm tiền trang trải cho cuộc sống, mẹ Liên cơ cực gồng gánh cả gia đình. Bức tranh sinh hoạt càng khiến cho phố huyện lúc nhá nhem thêm tàn phai, héo úa, số phận con người hiện lên thật nhỏ bé, rẻ rúm và đáng thương. Đây chính là thực tại miền Bắc nước ta một thời.
Dù là cảnh thiên nhiên hay cảnh sinh hoạt cũng cốt là làm nổi lên bức tranh tâm hồn nhân vật Liên. Trong tâm hồn của cô bé mới 9 tuổi hiện lên những nét vẽ thật đẹp, thật thơ mộng. Cô tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc ngày tàn, cảm nhận từng chi tiết bé nhỏ mà quen thuộc với cuộc sống nơi đây: “một mùi âm ẩm bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…”, mùi hương thân quen, đã gắn bó với cuộc sống của cô nhiều năm. “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen…” ngắm nhìn khung cảnh, dường như cái trầm buồn, yên tĩnh của thiên nhiên thấm sâu vào tâm hồn non nớt, đầy nhạy cảm của cô. Liên còn là một cô bé có tâm lòng nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Đó là sự quan tâm với mẹ con chị Tí, những câu hỏi han ân cần, chứa đựng tình yêu thương, xót xa và ái ngại cho hoàn cảnh gia đình chị. Nghe tiếng cười biết đó là cụ Thi đi, Liên “lẳng lặng rót đầy một cút rượu ty đưa cho cụ” và “đứng sững nhìn theo”. Trước hình ảnh những đứa trẻ con nghèo nhặt rác chị động lòng thương nhưng bản thân lại không có tiền cho chúng. Dưới ánh nhìn của tác giả sáng lên trong tâm hồn ngây thơ hồn nhiên ấy đó là vẻ đẹp tinh tế nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong thời khắc lụi tàn: Phải yêu quê hương, gắn bó với quê hương da diết đến thế nào cô bé mới có thể cảm nhận và yêu được hết cả cái mùi âm ẩm từ đất bốc lên, phải tinh tế ra sao mới thấy được cái hay cái đẹp và trân trọng cái dáng vẻ, bóng hình và âm thanh quê hương; bóng tối buông xuống như thấm sâu vào tâm hồn Liên trở thành chút dư vị quen thuộc, gắn bó. Sau tất cả bừng sáng lên nét đẹp trong tâm hồn em đó chính là tình thương người sâu sắc.
Những con người nơi đây cứ lẳng lặng, bình yên nhìn dòng đời chảy trôi như thế, nhìn cái đói hoành hành mà chẳng thể nào làm gì khác hơn. Để rồi họ thèm lắm, họ khao khát một chuyến tàu Hà Nội chạy qua, mang theo ánh sáng diệu kì, soi sáng cho cuộc đời nơi tăm tối. Câu chuyện qua đi nhưng đó vẫn là những hiện thực của miền Bắc một thời với cuộc sống bần cùng, cơ cực của người dân đồng thời bày tỏ nỗi niềm cảm thông, chia sẻ đối với cuộc sống của những kiếp người bạc bẽo ấy.
Nhà văn Thạch Lam như nhà quay phim tài ba đã tái hiện lại khung cảnh phố huyện lúc chiều tà, từng câu văn của ông như ống kính lia chậm tỉ mỉ, quan sát tất cả cảnh vật và con người trong nhịp sống nơi đây. Đồng thời ông cũng giống như một họa sĩ tài năng vẽ lên bức tranh ngày tàn có những kiếp sống leo lét như ánh đèn đêm. Ông cũng là một nhà tâm lí tài giỏi am hiểu thế giới nội tâm của nhân vật. Liên một cô bé nhạy cảm có tấm lòng nhân hậu hiếm thấy cô thương cho gia đình mình, thương cho những kiếp người tàn tạ quanh mình. Qua đó cho thấy tình cảm chân thành của nhà văn dành cho những con người có số phận nghèo khổ, tội nghiệp.
Những câu văn lãng mạn với bút pháp trữ tình đan xen chất hiện thực trong truyện ngắn, văn phong nhẹ nhàng, thanh thoát đã vẽ nên bức tranh chiều tà ở phố huyện bằng chất liệu ngôn từ gợi lên sự nghèo đói, khó khăn, tiêu điều đến thảm hại. Bức tranh ấy đã để lại cho người cảm nhận có nhiều dư vị, băn khoăn và trăn trở về cuộc sống của những người dân nghèo.
Thạch Lam không phải là nhà văn hiện thực phê phán như Nam Cao hay Ngô Tất Tố nên ngòi bút của ông không khai thác cái trần trụi của cuộc đời lam lũ. Mặc dù thế, trong cái bài thơ rất đỗi tinh tế là truyện ngắn Hai đứa trẻ này, Thạch Lam cũng đã gián tiếp phản ánh và tố cáo cái xã hội ngột thở, tù đọng, trong đó, cuộc sống con người đang mất hết ý nghĩa, đang bị dồn đến chân tường bế tắc. Nhà văn như nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta hãy cố gắng vượt lên hoàn cảnh, không được chấp nhận cuộc sống khó khăn, biết đối mặt với thử thách và luôn suy nghĩ tích cực về một tương lai tươi sáng. Để bản thân tỏa sáng, thực hiện ước mơ, dám nghĩ dám làm là những gì em nghiệm được khi đọc tác phẩm và em vẫn đang từng ngày cố gắng để đạt được mục tiêu, quyết không sống mờ nhạt, leo lét như ánh đèn đêm.