- Cạm bẫy dưới trăng
- Tác giả: Trần Gia Viên
- Thể loại:
- Nguồn: Vnkings.com
- Rating: [K] Mọi độ tuổi đều đọc được
- Tình trạng: Đã hoàn thành
- Lượt xem: 424 · Số từ: 1525
- Bình luận: 2 · Bình luận Facebook:
Suối Thia, những cơn lũ của mùa mưa bão đã qua đi. Cái chài cả một mùa tung hoành trên dòng suối Thia đã được treo gọn trong góc nhà. Trời bắt đầu chuyển rét. Cha con tôi lại lặng lẽ ra Vụng Xăng cất vó tôm. Cất vó không vất vả như quải chài, chẳng phải lội xa dưới nước lạnh, mà lại có thú riêng. Nơi thả vó là một vụng nước nằm giữa mô đảo cao và bờ suối. Vụng Xăng có một lối nhỏ cho nước từ suối Thia chảy vào, nên nước trong vụng êm đềm, rong rêu phủ xanh, là nơi thích hợp để đàn tôm kéo về trú ngụ.
Cha đã làm sẵn hơn mười cái vó tôm. Ông chọn những đoạn tre già, chẻ thành những thanh to cỡ ngón tay trỏ, vót nhẵn để làm gọng vó. Gọng thuôn về hai đầu, ở mỗi đầu cha vót một cái mấu nhỏ để lúc mắc vó được nhanh mà không tuột. Đoạn cha đặt hai cái gọng chéo nhau ở chính giữa, rồi lấy dây thép nhỏ buộc dính hai gọng với nhau. Chỗ đó cha làm một vòng dây thép nhỏ – chỗ để luồn đoạn tre vào để nhấc vó.
Vó là một mảnh màn cũ, được mẹ cắt vuông vức chừng một thước hai. Tôi còn nhớ, buổi chiều ấy, mẹ ngồi bên hiên, dưới ánh nắng muộn, đôi bàn tay chai sần vẫn thoăn thoắt khâu bốn góc vó. Bà dùng dây màn vấn lại thành vòng, rồi khâu chặt vào bốn góc vó. Các vòng dây này sẽ được mắc vào bốn đầu gọng để sẵn sàng cho việc thả vó bắt tôm. Những đường kim đều đặn, bền bỉ như chính tấm lòng của mẹ.
Thêm cái đòn tre to cỡ cổ tay, dài chừng ba mét. Vậy là xong dụng cụ cho một chiếc vó tôm. Ai ngờ, thứ công cụ giản dị, thô mộc ấy lại có thể đánh lừa đàn tôm ngây thơ dưới suối.
Đi cất vó còn cần chuẩn bị mồi nhử. Cha múc một bát cám gạo, cho vào chảo rang trên bếp cho đến khi dậy lên mùi thơm bùi. Thính nguội, cha trộn đều với một ít bùn nhão – thế là xong phần mồi.
Cơm tối vừa xong, cha vác bó vó lên vai, tôi xách đèn dầu theo sau. Đêm se lạnh, ánh trăng vằng vặc trải bạc mặt suối. Tiếng dép đập nhè nhẹ vào gót chân người, tiếng nước róc rách dưới bờ cỏ rậm, thi thoảng vang lên tiếng cú kêu xa xa. Đèn dầu loang một vệt sáng nhỏ phía trước, vừa đủ để soi bước cha, vừa đủ để lũ tôm không hoảng sợ khi thả vó xuống nước.
Đến nơi, cha dặn:
– Con đứng đây, để cha thả vó.
Ông đặt bó vó xuống bãi cỏ ướt sương, rồi lặng lẽ lắp từng chiếc vó vào gọng tre, thả một nắm thính thơm vào giữa rồi nhẩn nha hạ từng chiếc xuống mặt nước tĩnh lặng. Chẳng mấy chốc, hơn chục chiếc vó đã được thả vòng quanh bờ Vụng Xăng.
Hương thơm của cám rang theo dòng nước âm thầm lan tỏa, như một lời mời gọi ngọt ngào. Tôm từ các kẽ đá, từ những đám rong, lũ lượt mò về. Chúng tưởng gặp lại lớp bùn quen, cứ thế bám lấy, rỉa rỉa nhẩn nha…
Quay lại chỗ tôi đứng, cha nói nhỏ:
– Nhấc vó cũng phải có nghề đấy, con ạ. Muốn bắt được tôm thì phải lừa được nó.
Tôi ngạc nhiên:
– Lừa thế nào hả cha?
Cha cười, châm một điếu thuốc lào, làn khói mỏng vấn vít quanh ánh trăng. Ông chậm rãi giảng giải:
– Cái vó này, khi chìm dưới đáy nước, nom chẳng khác gì lớp bùn quen thuộc. Tôm cứ tưởng là đất đá, nên bò lên kiếm ăn. Lúc nhấc vó, phải kéo từ từ, thật êm, để chúng không nhận ra. Nếu giật mạnh là mất hết. Chỉ đến khi vó nhô khỏi mặt nước, chúng mới hay mình bị lừa. Nhưng khi đó thì đã muộn rồi.
Quả nhiên, tôi nhìn cha nhấc vó mà phục lăn. Ông khom người, dạng chân, hai tay cầm chắc cần vó, lùa gọn vào giữa gọng rồi bắt đầu nhấc từng chút, từng chút một, chậm rãi, nhẹ như sợ đánh động đến làn nước.
Đến khi khung vó cong cong kéo được bốn góc nhô lên, cả một mẻ tôm đã nằm gọn bên trong, quẫy lách tách dưới ánh trăng bạc. Tôi vội đưa cái rổ tre vào hớt lấy cả đám, rồi nhặt bỏ vào giỏ. Nghe tiếng tôm nhảy lách cách trong đó, lòng vừa vui sướng vừa hồi hộp, như chính tôi vừa lừa khéo được một điều gì quý giá giữa đêm suối lặng.
Đi hết một vòng hơn chục cái vó, cái được nhiều, cái được ít, nhưng chính thế mới hồi hộp. Giỏ tre đã lưng lửng.
Cha bảo:
– Nghỉ một chút đã nào.
Hai cha con ngồi xuống tảng đá ven vụng. Cha rút cái điếu cày đem theo, nhét thuốc vào nõ, châm lửa, rít một hơi khoan khoái. Tiếng rít của chiếc điếu vang giòn tan trong đêm trăng, một làn khói trắng chậm rãi tan vào màn sương mỏng bảng lảng mặt suối.
Trăng đã lên cao, ánh bạc đổ đầy mặt nước khiến Vụng Xăng như một lòng chảo lặng lẽ đựng ánh trăng vàng. Bên kia là mô đảo cao, những mỏm đá hình thù quái dị, bụi sậy nước, bụi lác hiện lên mờ mờ trong sương như một bức tranh thủy mạc. Thi thoảng, một con cá nhỏ quẫy nhẹ đâu đó, gợn nước loang ra như ánh trăng vừa thở.
Ngồi một lúc, cha lại ra hiệu cho tôi xách đèn, rồi cả hai tiếp tục đi nhấc lượt mới. Mỗi lần như thế, tôi lại được chứng kiến phép màu của chiếc vó giản dị kia. Dù mỗi lần nhấc vó được ít hay nhiều, niềm vui vẫn nguyên vẹn bởi đó là kết quả của sự kiên nhẫn, khéo léo và cả sự gắn bó giữa cha và con. Cứ thế, hai cha con đi hết dãy vó, rồi lại quay về chỗ cũ ngồi nghỉ. Trăng treo lơ lửng trên đỉnh núi, ánh sáng rắc bạc khắp dòng Thia. Tôi ôm giỏ tôm trong lòng, nhìn cha trầm ngâm nhả khói thuốc lào. Tiếng nước trong điếu kêu ro ro. Khoảnh khắc ấy, tôi thấy bình yên đến lạ – một sự bình yên giản dị mà giờ đây, khi đã trưởng thành, khó có gì thay thế được.
Khi đêm đã khuya, hai cha con trở về. Mẹ đã ngồi chờ bên bếp lửa. Cha trút giỏ tôm ra thau. Mẹ ngồi nhặt tôm rồi rắc mấy hạt muối vào, xóc cho ngấm đều. Tôi ngồi bên phụ mẹ nhặt tôm, nghĩ đến bữa cơm ngày mai: cả nhà xúm quanh mâm cơm có đĩa tôm mẹ rang khéo. Hạt muối giòn, vị ngọt thịt tôm thấm vào đầu lưỡi, tưởng như vị của cả dòng suối Thia, của trăng khuya Vụng Xăng, của giọt mồ hôi cha rỏ xuống trong đêm. Bữa cơm nghèo chẳng có cao lương mỹ vị, nhưng ấm cúng, chan hòa. Tiếng cười con trẻ, tiếng cha mẹ trò chuyện, và mùi tôm rang quyện với khói bếp… tất cả làm thành một ký ức trong veo, để mỗi lần nhớ lại, tôi lại thấy lòng mình dâng lên một niềm ấm áp khó tả.
Nhiều năm sau, mỗi lần nhớ lại những lần đi cất vó tôm, tôi không chỉ nhớ những con tôm quẫy lách tách trong rổ tre, hay bữa cơm gia đình bên bếp lửa, mà còn nhớ bài học thấm thía từ cha. Bài học ấy nằm ngay trong cái cách nhấc vó: từ tốn, kiên nhẫn, êm ái và, trên hết, là một sự “lừa khéo” với lũ tôm ngây thơ.
Chúng đâu biết, cái lớp màn mỏng kia chỉ giả làm bùn đất để đánh lừa chúng. Chúng tưởng đang ở chốn thân thuộc, êm ả, nên mới vô tư tụ lại, ăn mồi, nô đùa. Chỉ đến khi bị nhấc bổng khỏi mặt nước, chúng mới hay mình đã sa vào cạm bẫy.
Cha tôi ngày ấy không hề giảng triết lý cao siêu nào. Ông chỉ cặm cụi dạy tôi cách thả vó, cách tung mồi, cách nhấc vó sao cho êm nhất. Nhưng chính trong từng động tác nhỏ bé ấy, có lẽ ông đã trao cho tôi một bài học lớn: trong cuộc sống, không phải lúc nào thứ êm ái cũng là an toàn. Có những cái bẫy giăng lên từ sự ngọt ngào nhất. Phải tỉnh táo trước những ngọt ngào. Phải rèn mình qua gian khó, mới có thể đứng vững giữa dòng đời. Và chính nhờ những đêm trăng cất vó ở Vụng Xăng, tôi hiểu rằng: đôi khi, một bài học lớn nhất lại đến từ một chiếc vó tôm khum khum trong dòng suối nhỏ của tuổi thơ, dưới ánh trăng vàng năm nào.












Việt Trần (2 tháng trước.)
Level: 8
Số Xu: 1113
Có phải không? chỉ có ba mẹ mới thương ta vô điều kiện. Tất cả những êm á, ngọt ngào ngoài xã hội đều phải trả giá(có đi - có lại) mới có được, còn nếu như tự dưng đem đến cho ta thì đa phần đều là cạm bẫy.
Phạm Trân (2 tháng trước.)
Level: 6
Số Xu: 830
Hay quá nha