Mất một lúc chúng tôi mới vào tới sân chùa, toan về phòng thì trụ trì ra hiệu cho tôi đi về phía phòng sám hối. Căn phòng lúc này tối tăm và im ắng đến rợ người, trụ trì bước tới thắp sáng hai ngọn nến trên bàn thờ nhỏ mới kê ở đối diện cửa ra vào, căn phòng bừng sáng lên trong chớp mắt. Ông chỉ vào tấm đệm tròn dưới sàn ra hiệu cho tôi ngồi, rồi mở lời:
“Tại sao con làm vậy? Nếu ta không nhầm thì đây là lần thứ tư con làm vậy đúng không?”
“…”
“Ở đây chỉ có ta và con! Con không việc gì phải giấu giếm.”
“Cuộc sống này chán ghét con, cha mẹ bỏ rơi con, những thành viên trong gia đình hiện tại xa lánh con. Quan trọng hơn sâu trong con là một con quái vật khát máu. Quái vật thì thuộc về địa ngục, con làm vậy chỉ để tìm về nơi con nên ở.”
“Ai nói với con rằng: con là quái vật!”
“Những gì con trải qua đã nói cho con biết điều đó.”
Tôi dừng lại, trụ trì cũng chẳng tiếp lời, bốn bề trở lại với sự tĩnh lặng vốn có của nó.
“Xèo” một tiếng ngọn nến bên trái ban thờ kết thúc vòng đời của nó. Ngọn nến kế tiếp nhanh chóng được trụ trì thắp nên. Lần này thay vì đặt lên trên ban, ông lại đem nó đặt trước mặt tôi. Lửa từ nến không lớn nhưng vẫn mang cho tôi cảm giác ấm áp, mùi sáp theo các phân tử trong không khí len lỏi vào mũi tôi rồi rủ nhau lên não dạo chơi. Tôi không thích mùi này chút nào, tôi thích mùi hương trầm hơn.
Thời gian cứ thế trôi qua một cách vô nghĩa, khi ngọn nến trước mắt chỉ còn hai phần ba độ dài, trụ trì ra hiệu cho tôi nhìn cây nến trên ban thờ. Sáp của nó chỉ còn tầm một, hai phân nhưng ánh lửa của nó lại đặc biệt dài. Mắt tôi chưa kịp tận hưởng hết nguồn sáng ấy thì nó đã lụi tàn thành một đốm sáng nhỏ xíu nơi đầu bấc đen xì. Trong ánh sáng léo lắt của ngọn nến dưới sàn, đốm sáng ấy nhanh chóng chuyển thành một sợi khói mong manh tan vào thinh không, thứ còn sót lại chỉ là đài nến vô chi đứng im trên mặt gỗ.
“Sự sống đôi khi thật mong manh phải không?”
Trụ trì bất ngờ lên tiếng, phá tan sự tĩnh lặng của căn phòng. Tôi cau mày nhìn ông ra chiều khó hiểu, khuôn mặt hiền từ đối diện bỗng nở ra một nụ cười rất khẽ, thanh âm quen thuộc lại tiếp tục vang lên:
“Cuộc sống quá hiện đại làm nhiều người vô thức quên đi sự có mặt của nến. Chỉ khi thực sự cần thiết người ta mới nhớ đến nó, mang nó ra sử dụng. Nhưng nó không hề thù hận, dỗi hờn loài người, khi được thắp lên nó vẫn vui vẻ, hân hoan hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Ánh sáng của nó tuy nhỏ bé nhưng vẫn đủ làm căn phòng tối tăm bừng sáng, tuy kém xa bếp sưởi nhưng nó vẫn mang cho người ta cảm giác ấm áp. Nến luôn cháy hết mình dù biết đó là hành động làm tiêu hao sự sống của bản thân. Khi chiếc kim sinh mệnh trôi về vạch cuối, nó vẫn cố gắng níu kéo sự sống bằng cách lưu lại đốm sáng nhỏ nơi đầu bấc. Nến ham sống đến lạ phải không Nhật Hạ?”
Tôi lơ đãng nhìn trụ trì, thuận miệng vâng một tiếng.
“Vậy con có thể sống như một ngọn nến không? Dù cuộc đời dài ngay ngắn vẫn sống hết mình, không bao giờ tự kết thúc mạng sống đáng quý của bản thân.”
“Nếu con sinh ra bình thường như bao người khác thì con sẽ không bao giờ làm thế! Đằng này con lại…”
Tôi bỏ lửng câu nói, nhìn chăm chăm lòng bàn tay phải.
“Thế nào là bình thường. Thế nào là bất bình thường. Người, thần, súc sinh, quỷ thậm chí là cả Phật cũng không dám nhận hai chữ bình thường về phía mình. Sống trên đời làm gì có ai mang tấm thân hoàn toàn trong sạch cho đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay, ai chả từng mắc sai lầm. Biết sai sửa sai là đáng quý, chạy trốn cái sai là hèn nhát!”
“Con thà làm kẻ hèn nhát còn hơn làm kẻ bất thường!”
“Trong đầu con ngoài chết ra chỉ có chết thôi sao? Con có biết rằng rất nhiều linh hồn ngoài kia muốn thoát khỏi lốt súc sinh, kiếp ngạ quỷ, chốn địa ngục để làm người mà không được hay không?”
“Nếu được lựa chọn thì con sẽ chuyển sinh vào cõi trời thay vì nhân thế.”
“Con nghĩ cõi trời là nơi khoái lạc nhất trong vòng luân hồi! Con sai rồi! Cõi trời sung sướng ấy, vui vẻ ấy nhưng họ đâu biết thế nào là cảm giác ấm áp của tình thân, có bao giờ họ chạm được vào niềm vui nhỏ bé nhất của thế gian. Sống lâu ấy nhưng vẫn nằm trong bánh xe luân hồi, khi lâm trung vẫn sợ hãi mình sẽ rơi vào cõi thấp hèn. Cõi atula tuy phúc lớn như cõi trời nhưng tham, sân, si quá sâu khiến họ luôn bị ngọn lửa sân hận thiêu đốt, không ngày nào được an ổn. Súc sinh lại là cõi ngu si, vô minh vòng đời ngắn ngủi, không chịu sự sai khiến, giam cầm của loài người thì cũng chỉ biết sống theo bản năng để rồi chết một cách vô nghĩa. Ngạ quỷ suốt kiếp chỉ biết ôm bụng đói mà lang thang khắp nơi vậy mà khi tìm được đồ ăn lại khó bề hấp thụ. Địa ngục là chốn tồi tệ, những kẻ thác sinh vào đây phải chịu khổ nạn ngàn năm trong núi đao, biển lửa, vạc dầu mà không rõ khi nào mình được chuyển sinh. Cõi người tuy phải trải qua sinh, lão, bệnh, tử nhưng lại an nhàn hơn những cõi khác: không bị những thiên quy hà khắc nơi cõi trời gò bó, không đau đầu vì những tham, sân, si như cõi atula, không phải sống kiếp đời ngắn ngủi, vô minh như loài súc sinh, càng không biết thế nào là cảm giác đói đến cồn cào nhưng không thể ăn hết những thứ mình thấy như ngạ quỷ hay chịu nhục hình nơi địa ngục lửa đao. Bước vào cõi phật tức là rời khỏi luân hồi nhưng liệu có bao nhiêu kẻ sẵn sàng từ bỏ mọi cám dỗ, mọi hoan lạc để tìm đến phật pháp. Xét cho cùng cõi người vẫn là cõi khoái lạc, sung sướng nhất, là khởi nguồn của mọi cõi. Quả của kiếp này là nhân kiếp trước đã gieo. Đã được làm người thì hãy cố sống cho thật tốt, làm sai thì gắng mà sửa sai. Đừng dùng cái chết để chạy trốn sai lầm, đó chỉ là hành động đẩy bản thân vào địa ngục tăm tối mà thôi!”
Đêm ấy, ông còn nói nhiều hơn thế nhưng đọng lại trong tôi chỉ có bấy nhiêu. Còn những điều khác vừa vào tai phải đã tuồn ngay ra ngoài qua tai trái rồi theo khe cửa, ô thông gió mà dắt tay nhau đi dạo trời đêm. Tôi biết khi nói ra những lời ấy, ông không chỉ đơn giản là muốn giảng dạy cho tôi về sáu cõi luân hồi mà còn đang mắng tôi vì tội không biết quý trọng mạng sống, phất lờ cảnh cáo của ông mà nửa đêm nửa hôm mò vào rừng tìm cửa tử. Nhưng sau ngần ấy sự việc, tôi nào đâu còn tâm trí mà ngồi yên lắng nghe ông, tôi chỉ muốn biến mất khỏi chốn nhân gian này càng sớm, càng tốt thôi.
“Nói thì hay lắm, nhưng thầy có phải con đâu mà hiểu được tất cả những cảm giác kinh hoàng, sợ hãi con đã trải qua. Con thà bị đẩy xuống địa ngục trong vòng luân hồi còn hơn làm kẻ lạc loài chốn nhân gian. Con ghét cái thân thể này, ghét kiếp sống này. Kiếp trước con đã làm gì sai để phải chịu quả như hôm nay. Giá mà con chưa từng được sinh ra, như vậy con quái vật kia cũng chả có cơ hội đến với thế gian.”
“Nếu không phải con thì sẽ là người khác trong họ tộc con thôi.”
Trụ trì chậm rãi nói ra câu ấy, vừa lúc ngọn nến trên sàn vụt tắt. Không biết có phải do mất đi hơi ấm của ánh nến hay không mà toàn thân tôi bỗng chốc lạnh toát. Đang mò mẫm tìm nến để thắp thì trụ trì lại tiếp tục lên tiếng:
“Con có muốn biết nguyên do của việc cha mẹ đưa con vào chùa không?”
“Thầy chịu nói cho con sao?”
Vừa quệt diêm tôi vừa hỏi với giọng đầy ngờ vực.
“Nếu giấu thêm nữa, e rằng họ chưa kịp tới thì con đã dùng hết chín cái mạng của mình mất rồi.”
Mọi giác quan trong tôi gần như đông cứng sau khi nghe câu nói đó. Chỉ khi ngọn lửa trên cây diêm cháy đến đầu ngón tay tôi mới bừng tỉnh. Chuyện gì đây? Không chỉ dừng lại ở quái vật lông lá mà còn thêm chín cái mạng nữa sao? Tôi là cái thứ gì vậy? Tính quệt que diêm khác nhưng tay tôi cứ run cầm cập như người bị cảm lạnh. Loay hoay mãi, cuối cùng ngọn nến mới lại được thắp lên trong tay trụ trì.
“Thầy có thể nhắc lại câu vừa rồi một lần nữa được không?”
Nuốt nước bọt hơn chục lần tôi mới nói ra được câu ấy một cách rành mạch, rõ ràng.
“Nhắc lại chi bằng thầy kể cho con nghe câu chuyện từ thời xa xưa của đại gia đình con. Thực ra con cũng chỉ là đứa trẻ tội nghiệp phải ăn quả đắng mà tổ tiên đã gieo mà thôi.”
Nhịp tim tôi tăng dần đều trong suốt thời gian nghe ông kể lại câu chuyện của tổ tiên. Khoảng thời ấy với ông có lẽ chỉ là vài phút đồng hồ ngắn ngủi nhưng đối tôi thì như hàng trăm năm ròng rã. Ông kết thúc câu chuyện bằng cái lắc đầu sầu thảm:
“Đời cha ăn mặn thì đời con khát nước mà! Thiện tai! Thiện tai!”
Tâm trạng tôi khi ấy chỉ có thể nói là bàng hoàng và rối loạn đến cùng cực. Thật không ngờ tổ tiên tôi lại từng làm cái nghề đó để kiếm sống, đã vậy còn bị chính nghiệp của nghề đó hại đến người mất mạng, kẻ mang theo lời nguyền ác độc bỏ xứ ra đi. Không biết là do nghiệp báo kiếp trước hay do kiếp này tôi sinh vào giờ đại hung mà trải qua bao thế hệ cháu con, lời nguyền quái ác ấy lại chọn tôi để ứng. Lên cười vì bản thân có những chín cái mạng hay khóc vì sự ra đời của mình là dấu chấm hết cho đại gia đình mình đây. Sứ mệnh của tôi ở thế giới là giết người hay sao.
Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi không muốn tay mình nhuốm máu thêm bất kỳ lần nào nữa. Toàn thân tôi run lên cầm cập khi mường tượng ra cảnh: từng người, từng người trong dòng họ chết một cách tức tưởi dưới nanh vuốt của thứ xấu xa đang len lỏi trong tôi mà bản thân lại không hề hay biết. Tôi không muốn chuyện này xảy ra. Tôi phải tìm cách thay đổi đó, tìm cách khống chế nó. Chồm người về phía trụ trì, tôi bấm chặt móng tay vào bả vai ông, gằn giọng:
“Thầy biết lời nguyền ấy, đón nhận con dù biết con sinh ra với sứ mạng tử thần. Như vậy thì chắc chắn cũng biết cách khống chế nó. Vậy thầy có thể nói cho con biết được không? Con không muốn phần sau của lời nguyền trở thành sự thật.”
“Ngồi lại vị trí của mình!”
Ông quát lớn nhưng tôi hoàn toàn không cảm nhận được chút sợ hãi nào của bản thân mà lại càng bạo hơn. Trừng mắt nhìn ông, tôi nói với giọng gần như ra lệnh:
“Nói cho con biết!”
“Ta bảo ngồi xuống! Đây là cách con cầu xin người khác sao?”
Không giống vừa nãy, giọng ông bây giờ đậm chất nghiêm nghị của bậc tiền bối đang dạy dỗ một hậu bối cứng đầu. Tâm trạng của tôi tụt dốc không phanh ngay sau khi câu nói ấy truyền vào lỗ tai, về lại chỗ ngồi mà tôi tưởng như bản thân là cái xác không hồn.
“Bình tĩnh lại rồi hả? Nếu rồi thì ta sẽ nói nốt điều cần nói.”
“Nếu giúp ích được cho con thì thầy hẵng nói, còn không thì thôi đi.”
“Xem ra không thể nói chuyện bình thường với con được nữa rồi. Con còn nhớ người thanh niên đi cùng thầy vừa rồi không?”
“Còn.” Tôi đáp cộc lốc.
“Người đó bảo thầy sau khi kể xong điều cần kể thì đưa con bức thư này!”
Dứt lời ông đẩy đến trước mặt tôi một bìa thư không tem, không địa chỉ người nhận, người gửi. Tôi xé nó ra một cách thô bạo, nội dung của bức thư khiến tôi không lạnh mà run:
“Gửi tới kẻ bị lời nguyền ứng nghiệm
Nghe được điều cần nghe thì ngoan ngoãn ở tại vị trí nên ở. Ta sẽ đến tìm mi và dạy mi cách khống chế con quái miêu kia vào lúc ta cho là thích hợp. Nếu trái lời, không cần mi ra tay, đích thân ta sẽ giết sạch những kẻ có quan hệ họ hàng với mi trong đêm rồi tống mi xuống tầng địa ngục thứ mười tám để mi mãi mãi không thấy được ánh mặt trời.
Kẻ sống ngoài tam giới“
Đọc xong mẩu giấy mà tay tôi run đến không tài nào nhấc nổi, trong đầu thầm nghĩ cái tên dị hợm ấy rốt cuộc là cái giống gì mà lại tự nhận mình sống ngoài tam giới. Đương lúc hoang mang thì câu nói không liên quan của trụ trì khiến tim tôi chút nữa là chuyển khẩu lên họng.
“Đêm dài đã qua, sáng nay quả là một sáng mùa xuân tuyệt vời.”
Tôi quay đầu về phía thanh âm nhanh đến lỗi cái cổ tội nghiệp kêu rắc một tiếng. Cảnh tượng mà mắt thu vào khi đó làm tôi bỗng chốc quên đi cơn đau nơi cổ, cứ thế mà tròn mắt, há mồm nhìn. Trụ trì đứng chính giữa cửa phòng mở toang, những tia nắng ấm áp, mong manh của mùa xuân đang bò tràn trên cánh cửa gỗ, hắt lên cả tấm thân gầy của trụ trì, xung quanh ông lấm tấm những hạt bụi li ti đang bay bay trong lòng những tia nắng sớm. Tôi không biết lên dùng những từ gì để diễn tả chính xác cảnh tượng khi ấy. Nếu bắt buộc phải viết ra thì tôi sẽ ghi: lúc ấy trông trụ trì cứ như đang bước vào miền cực lạc vậy. Tính đứng dậy để hưởng thụ những tia nắng ấy mà chân tôi cứ phản lời chủ, mềm nhũn ra như cọng bún. Báo hại tôi mất nửa tiếng sau mới chân nam đá chân chiêu lết về phòng trong tâm trạng rối như tơ vò.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Minh họa chúng sinh cõi Atula trong quan niệm Phật giáo
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Ngoài vnkings truyện còn được cập nhập tại:
santruyen.com (đến chương 18)