Con đường hoạn lộ
Trương Đăng Quế là người con thứ ba trong một gia đình đông anh em. Là cậu bé sớm mồ côi cha nhưng với bản tính chăm chỉ, thông minh, hiền lành nên rất được anh chị thương yêu đùm bọc. Ông được anh chị nuôi ăn học, được đi thi, được thể hiện chí làm trai của mình.
Khoảng hai mươi lăm tuổi, ông đi vào kinh đô Huế ăn học, ôn luyện kiến thức chuẩn bị cho một bước ngoặt lớn.
Năm hai mươi bảy tuổi, Trương Đăng Quế thi đỗ Hương cống (cử nhân) trong khoa thi đầu tiên của triều Nguyễn, khoa Kỹ Mão, niên hiệu Gia Long thứ mười tám (1819).
Sau kì thi đó, ông được bổ chức Hành tẩu bộ Lễ, là một chức quan nhỏ chuyên về văn thư làm việc ở một bộ.
Năm 1820 (Minh Mệnh nguyên niên), sau một năm tập sự tại bộ Lễ, được một quan đại thần tiến cử, Trương Đăng Quế được bổ làm Đông cung bạn độc, tức công việc dạy các hoàng tử học hành.
Từ thời điểm đó cho đến những năm 1826, 1827, tiếng tăm tiên sinh vẫn chưa có gì, vẫn với một chức quan nhỏ và một cuộc sống bần hàn thanh bạch. Nhưng từ những năm tiếp theo, Trương Đăng Quế với sự khôn khéo, cẩn thận, nhất là với thực tài của mình, đã được thăng chức tước nhanh chóng, liên tục.
Năm 1828, ông được đổi sang bộ Lại sung chức Hành tẩu văn thư phòng rồi quản lý văn thư phòng. Tháng 10 năm 1828, thăng Thượng Bảo Thiếu Khanh giữ quản cai phòng. Năm 1830, văn thư phòng đổi thành nội các, giữ chức Tả Thị Lang bộ Công. Tháng 6 năm 1830, chủ khảo kỳ thi hạch giáo chức các tỉnh cử lên tại trường Quốc Tử Giám.
Tháng 5 năm 1831, ông giữ quyền lãnh quản lý bộ Công. Tháng 10 năm 1831, quyền Tả Tham Tri bộ Hộ. Năm 1832, sung Độc quyển thi đình. Năm 1833, giữ Ấn Triện Đô Sát Viện rồi Toản tu trong ban soạn quốc sử kế tiếp thăng Thượng Thư bộ Binh kiêm Ấn Triện Đô sát viện. Năm 1835, sung cơ mật viện đại thần gia hàm Thái Tử Thiếu Bảo nhận chủ khảo kỳ thi hội.
Năm 1836, kinh lược Nam Kỳ chỉ trong vòng 5 tháng mà ông đã lập được địa bạ, đinh bạ cho các vùng đất đang khai khẩn “làm lợi cho nước gấp 3 lần” (lời Tự Đức) – Công trình này về sau “Người Pháp thuộc địa cũng thán phục, nhất là địa bạ đến đầu thế kỷ XX, họ vẫn lấy đó làm căn cứ giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất”.
Công việc đạt kết quả tốt, ông được thăng Hiệp biên Đại học sĩ lãnh thượng thư bộ Binh. Tháng 12 năm 1836, kinh lược quân binh Thanh Hóa. Năm 1837, được cử quản lý Khâm Thiên Giám. Năm 1838, chủ khoa thi hội rồi độc quyển thi đình sau đó kiêm nhiệm Hiệp Lý điều khiển thủy quân. Cuối năm nhận trọng trách tuyển binh ngạch tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Ninh Bình. Năm 1839, tấn phong Tuy Thạnh Nam. Năm 1840, nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn vua Thiệu Trị. Năm 1841, thăng hàm Văn minh điện Đại học sĩ gia Thái bảo.
Năm 1842, hộ giá Bắc tuần lao nhọc được phong Tuy Thạnh Tử. Năm 1844, kiêm thêm Ty Tào Chánh. Đến năm thi Hội, ông được cử chủ khảo rồi kế tiếp độc quyển thi đình. Năm 1846, được Vua ban thẻ ngọc khắc chữ vàng “Cố mạng lương thần” tấn phong Tuy thanh bá – Có công trong việc tham mưu an định Trấn Tây nên được khắc tên tuổi công nghiệp trong khẩu súng thần công Bảo Đại Định công Đệ Nhất Vị. Tháng 9 năm 1847, nhân di chiếu của vua Thiệu Trị tôn vua Tự Đức. Ít lâu sau được thăng Cần Chánh Điện đại học sĩ tấn phong Tuy Thạnh Quận công. Năm 1850, được vua ban một khánh vàng khắc 4 chữ “Tam Triều Thạc Phụ”.
Có thể nói, sau hai mươi bảy năm (1820 – 1847), Trương Đăng Quế đã có được những công tích thật đáng nể phục, từ một nho sĩ con trai một tri phủ thời Tây Sơn, ông đã vươn đến đỉnh cao tột cùng của sự nghiệp dưới triều Nguyễn. Ông luôn được Vua và triều thần tín nhiệm, giao cho những trọng trách quan trọng, ủy thác cho những việc lớn lao về cả kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục. Nếu tính đến 1863, năm ông chính thức được về hưu thì đời làm quan của ông tất cả bốn mươi ba năm, trong đó có hai mươi năm là ông giữ trọng trách lớn nhất. Chính tài năng, đức độ hơn người, ông đã khiến cho lòng ưu ái của vua đối với mình ngày một sâu sắc, đã khiến cho những lần xin được lui về ở ẩn của ông đều không được đồng ý. Trương Đăng Quế đã có năm lần xin về hưu trí 1850, 1851, 1855, 1862, 1863, đến lần sáu, tháng 2 năm 1863 khi tuổi đã bảy mươi, ông mới được lui về vườn cũ, sống dưới mái nhà tranh vách đất được hai năm rồi mất (1865). Vua ban hàm Thái sư, cho tên Thụy là Văn Lương.
Các tác phẩm tiêu biểu
Trương Đăng Quế cùng Hà Tông Quyền được cử biên tập cuốn sách Ngự chế tiễu bình lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược. Sau khi hoàn thành, cuốn sách này được khắc in 153 quyển (bao gồm 142 quyển chính biên, 8 quyển phụ biên, 2 quyển thơ, 1 quyển mục lục).
Vào năm thứ mười sáu của triều vua Minh Mệnh (1835), ông được sung làm Tổng tài Thực lục sở (cơ quan viết sử), phó Tổng tài là Tả phó Đô ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt. Tác phẩm còn lưu lại trong lĩnh vực này là Thiệu Trị văn quy (Quy tắc làm văn thời Thiệu Trị).
Về văn chương, theo thống kê của Giáo sư Trần Nghĩa (nguyên viện trưởng viện Nghiên cứu Hán Nôm), thì tác phẩm của Trương Đăng Quế còn lại tại kho lưu trữ của Viện Hán Nôm bao gồm:
1. Quảng Khê văn tập
2. Trương Quảng Khê văn tập
3. Trương Quảng Khê tiên sinh thi tập
4. Sứ trình vạn lý tập
5. Duyệt Giáp Thìn khoa Điện thí văn
6. Về Diệu Liên thi tập
7. Nhật Bản kiến văn tiểu lục
Ngoài vai trò là người sáng tác, Trương Đăng Quế còn tham gia chủ trì hoặc biên soạn các tập sách:
1. Đại Nam liệt truyện tiền biên
2. Đại Nam thực lục tiền biên
3. Đại Nam thực lục chính biên
4. Hoàng Nguyễn thực lục tiền biên
5. Hoàng Nguyễn thực lục hậu chính biên
Người viết sẽ tập trung khảo sát tác phẩm Trương Quảng Khê tiên sinh thi tập (Học văn dư tập), vì thế, lời giới thiệu cụ thể hơn về tập thơ này của Trương Đăng Quế là một điều tất yếu.
Đây là di cảo thơ của Trương Đăng Quế do Tùng Thiện vương Miên Thẩm biên tập cho khắc in năm 1858. Tập thơ được Lương Khê Phan Thanh Giản, Tùng Thiện vương Miên Thẩm viết lời tựa.
Toàn tập gồm có 244 bài thơ được Miên Thẩm biên tập thành 4 quyển:
Quyển 1: 36 bài
Quyển 2: 61 bài
Quyển 3: 76 bài
Quyển 4: 71 bài
Đây là một trong những tác phẩm quan trọng chứng tỏ được tài văn chương của bậc đại thần, là những trang viết chuyển tải được tâm tư, tình cảm, tư tưởng của Trương Đăng Quế trước việc đời, việc người và chính nỗi lòng mình sau những tháng năm dài chăm lo việc nước, việc dân. Phần tiếp theo sẽ là những khía cạnh chi tiết về tác phẩm thi ca đồ sộ này của ông.