- Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Tác giả: Mộc Nghi
- Thể loại:
- Nguồn: Vnkings.com
- Rating: [K] Mọi độ tuổi đều đọc được
- Tình trạng: Đã hoàn thành
- Lượt xem: 1.618 · Số từ: 1204
- Bình luận: 0 · Bình luận Facebook:
-
Lượt thích: 0
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị. Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp, còn tình người thì tha thiết nhớ mong.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi chân thành và là lời tự hỏi chính mình của nhân vật trữ tình. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi tu từ nổi bật nhiều màu sắc, thể hiện niềm đau xót, tiếc nuối ngọt ngào. Nhà thơ sử dụng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thâm tình. Đó cũng chính là một câu hỏi đau đớn vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang trong giai đoạn cuối của cơn bệnh.
Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết, mang vẻ đẹp của “hàng cau”, “nắng mới”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không gian đầy ánh sáng. Một vẻ đẹp mượt mà, tười tốt, đầy sức sống, “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tác giả dùng màu xanh ngọc để diễn ta sức sống, vẻ đẹp thiên nhiên nơi thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, trong trẻo. Nếu không có một tình yêu sâu nắng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy.
Và cảnh đẹp thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ và đẹp thế: những lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang mặt chữ điền, khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực. Trong tâm trí người thi nhân vì thế mà bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền ấy lấp ló sau hàng trúc. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật và đồng thời thông qua đó, tác giả cho người đọc nhìn thấy được vẻ đẹp phúc hậu, duyên dáng của con người xứ Huế.
Nếu như khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, từ cảm xúc niềm vui chuyển đổi đột ngột sang lo âu đau buồn khi tác giả mặc cảm với thân phận ở đó ta thấy được khát khao chờ đợi một cách tuyệt vọng.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Thôn Vĩ Dạ nằm ngay bờ sông Hương êm đềm. So với tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ sầu mong.
Hàn Mặc Tử đã sử dụng phép nhân hóa làm dòng sông như chở nặng nỗi buồn sầu của nhà thơ. Nỗi buồn của thi nhân nhường như phủ khắp cả cảnh vật, “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi như cá với nước nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã diễn tả gió mây chia lìa, xa cách: “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp do mặc cảm về thân phận.
Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng mơ, đưa người đọc vào không gian ngập đầy ánh trăng. Hình ảnh “bến sông trăng” gợi vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo không thực.
Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” đó là hiện thân cho nỗin lo sợ của tác giả, sợ quỷ thời gian ít ỏi của mình mà khát vọng giao cảm với cuộc sống vẫn đong đầy, thiết tha.
Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hy vọng mà vẫn mong ước:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ “mơ khách đường xa, khách đường xa” thể hiện sự xa xôi, cách trở về thời gian và cả không gian. Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi của cô gái Huế, màu trắng ở đây cũng đã hóa thành màu của ảo ảnh “áo em trắng quá nhìn không ra” thể hiện sự hư ảo, mơ hồ về hình ảnh người xưa nên tác giả rơi vào trạng thái hụt hẫng, xót xa.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nơi mà Hàn Mặc Tử dưỡng bệnh, ông luôn xem là tù ngục giam lỏng mình. Bởi thế câu thơ như vừa mơ, còn kỉ niệm cứ chìm vào nơi xứ Huế nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói xường của kỉ niệm.
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”, đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ bộc lộ nỗi cô đơn, trống vắng khi hoài niệm về quá khứ hay ước vọng không thể, nhà thơ càng thêm đau đơn, điều đó chứng tỏ tình yêu tha thiết cuộc sống của một con người, khát khao yêu thương và gắn bó cuộc đời.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh vẻ đẹp về miền quê đất nước, là một tác phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha, yêu đời.