- Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Tác giả: Nguyễn Thành Trương
- Thể loại:
- Nguồn: Vnkings.com
- Rating: [K] Mọi độ tuổi đều đọc được
- Tình trạng: Đã hoàn thành
- Lượt xem: 2.047 · Số từ: 1111
- Bình luận: 1 · Bình luận Facebook:
-
Lượt thích: 2 Đào Thảo Phương Nguyễn Thành Trương
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người văn võ song toàn, nhưng lại sống trong một xã hội tranh đua, vụ lợi. Một người tài giỏi như ông mà sống ở thời đại ấy thì thật bất công. Vì lẽ đó, ông chán ngán cuộc sống nơi quyền quý, cao sang ấy mà lui về ở ẩn chốn quê nhà. Tuy cuộc sống không đầy đủ như trước kia, không phải là sơn hào hải vị nhưng ông lấy làm vui và tỏ ra vẻ bằng lòng với những gì mình đang có. Điều đó thể hiện rõ nhất qua bài thơ Nhàn cho ta thấy quan niệm sống của ông:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu, đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Mở đầu bài thơ đã nêu lên cuộc sống đơn sơ, giản dị của tác giả:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”
“Mai” dùng để đào đất, “cuốc” dùng để cuốc đất trồng rau, “cần câu” dùng để câu cá. Kết hợp với số từ “một” đã liệt kê các công cụ được bày biện ra trước mặt cho ta thấy ông đã trở thành một lão “nông tri điền” thực thụ. Bây giờ, mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng chỉ cần thực hiện là xong. Điều này thể hiện mặc dù khi ấy ông là một người có tài trong triều đình – một nơi trang trọng, đầy quyền huy nhưng ông trở về quê cũng như bao người nông dân khác, không có sự phân biệt giai cấp. Trong thời kì ấy rất khó tìm được một người như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo những người khác họ sẽ ở nơi cao sang ấy để thừa hưởng những món ngon vật lạ, bổng lộc của triều đình. Riêng tác giả đã rời bỏ mọi thứ để làm mới cuộc sống của mình. Câu thơ thứ hai cho ta thấy ông rất thảnh thơi thể hiện qua cụm từ “thơ thẩn”, “vui thú” lấy làm bằng lòng với cuộc sống đơn sơ, giản dị. Mặc kệ mọi người, ông không quan tâm đến việc đó. Dù cuộc sống nó tuy vất vả nhưng đối với ông là “nhàn” cho bản thân, “nhàn” cho tâm hồn. Một cuộc sống thanh cao nhưng không ảm đạm. Điều đó cũng toát lên vẻ đẹp trong con người tác giả. Một người được mọi người kính trọng mà bây giờ đã là một gnười nông dân cùng với những công cụ thô sơ làm nên một cuộc sống, một cuộc đời thanh nhàn.
Những con người cứ xem mình là hay là giỏi là khôn thì hai câu thơ tiếp theo nói về quan niệm dạy khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.”
Bằng nghệ thuật độc đáo đã nêu sự đối lập giữa “ta – người”, “dại – khôn”. Người tuy khôn nhưng dại, người tuy dại nhưng khôn. “Nơi vắng vẻ” một nơi yên bình, không nhộn nhịp như lúc ông còn ở trong triều nữa. Ông chỉ muốn tìm một nơi vắng lặng, yên tĩnh để tìm đến một cuộc sống riêng của mình. “Chốn lao xao” nơi phồn hoa, đô hội, nơi buôn chen, mua danh lợi, bán nước,… Thơ Nhàn của Nguyễn BỈnh Khiêm là sự phủ nhận danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”. Mọi thứ ấy đối với ông nó là vô nghĩa chỉ có “nhàn” mới có ý nghĩa. Tất cả những thứ “nhàn” đều hội ngộ vào con người ấy, một con người sống không vụ lợi, không tranh đua, bon chen với cuộc sống đời thường. Điều đó càng chứng tỏ hơn ông sống vì chữ “nhàn”. Có lẽ điều ấy là hạnh phúc đối với tác giả. Nói tóm lại, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm đến nơi thanh bình, rời bỏ những danh lợi, sự bon chen của xã hội.
Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn mang đậm vẻ đạm bạc mà thanh cao:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
Sự đạm bạc là những thức ăn quê mùa, dân dã “măng trúc”, “giá”. Ông sống thuận theo tự nhiên mùa gì ăn đó. Đáng lẽ, khi ấy ông đã quen với những món ngon thì theo bản thân ta nghĩ những món này ông sẽ ăn không ngon, nhưng riêng ông đó là sự bình dị, chan chứa sự thanh nhàn nên ông cảm nhận nó rất tuyệt. Các món ăn đạm bạc, “cây nhà lá vườn” do chính bàn tay và sức lao động của mình làm nên. Ông sinh hoạt cũng giống như bao người không có gì là cao quý mà dân dã đến không tưởng. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng “tắm hồ sen”, “tắm ao” như những người nông dân khác. Đạm bạc mà thanh cao. Mùa gì thức ấy. Không phải là của ngon vật lạ nhưng đó là điều đáng quý. Hai câu thơ trên là bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông đầy vẻ tự nhiên.
Tác giả là người sáng suốt, tỉnh táo, trí tuệ, uyên thâm. Ông tìm đến say để mà tỉnh:
“Rượu, đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Hai câu thơ, tác giả sử dụng điển cố Thuần Vu Phần: công danh, tiền tài như một giấc chiêm bao. Ông xem thường xa hoa, phú quý. Mọi thứ nó sẽ đến với ta một cách tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm đến thiên nhiên và nhâm nhi ít rượu để ngẫm về sự đời. Ông muốn tìm về thiên nhiên phàm tục. Không trông mong danh lợi. Bởi ông nhận ra công danh phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.
Bài thơ là bức chân dung tự họa về cuộc đời mình của Nguyễn Bỉnh Khiêm về con người và nhân cách sống cao đẹp. Qua bài thơ ta càng hiểu rõ hơn quan niệm sống của ông. Chúng ta hãy xác định cho bản thân mình một quan điểm sống phù hợp, đừng vì danh lợi, phù phiếm mà đánh mất đi vẻ đẹp nhân cách bản thân. Chúng ta hãy cống hiến hết mình cho dân, cho nước mà không vụ lợi vì bản thân.
Thanh Thảo (4 năm trước.)
Level: 7
Số Xu: 64
ngắn gọn quá? nhỉ?