- Phân tích “Tự Tình II”
- Tác giả: Giai Mộc
- Thể loại:
- Nguồn: Vnkings.com
- Rating: [K] Mọi độ tuổi đều đọc được
- Tình trạng: Đã hoàn thành
- Lượt xem: 1.732 · Số từ: 2762
- Bình luận: 4 · Bình luận Facebook:
-
Lượt thích: 3 Cỏ Dại Nhất Tiêu Bác Quân Aka Tinh Linh Tóc Đỏ
Bước vào mảnh vườn đầy hương sắc của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong giai đoạn nữa cuối thế kỉ XVIII đến nữa đầu thế kỉ XIX, tâm hồn nhạy cảm của người đọc như bị nhấn chìm giữa không khí sôi sục của tiếng reo hò đòi quyền sống, quyền hạnh phúc. Một làn sóng trào dâng với hàng loạt các tác phẩm nổi lên phản ánh những khát vọng của con người. Có thể nói, ngoài ca dao thì đây là giai đoạn đầu tiên mà hình ảnh người phụ nữ được khắc họa một cách đầy chân thật, đẹp đẽ với những khát khao, hoài bão làm ám ảnh lên từng trang văn học. Ví như những bức tranh số phận của những kiếp hồng nhan vang lên tiếng thở dài thương xót trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, như hình ảnh người chinh phụ mỏi mòn với âm điệu xót xa, mong chờ đến oán hờn trong “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn. Hay khắc khoải nhất, “những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”, tiếng thở dài chua chát của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Tự Tình II” của Hồ Xuân Hương. Trong tất cả, ta chưa thể thấy ở đâu một nhà văn trung đại trong lịch sử văn học dân tộc mang đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ, tiếng đòi hỏi cho hạnh phúc cá nhân, một tiếng nói cất lên từ sự thấu cảm trước thân phận làm lẽ của những kiếp má đào trong xã hội bấy giờ như Xuân Hương.
“Tự Tình II” nằm trong tập thơ “Tự Tình” gồm ba bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật viết bằng chữ Nôm với bút pháp vừa trữ tình, vừa sâu lắng, mạnh mẽ. Mỗi một bài thơ đều thấm đẫm, chan chứa những nỗi niềm đau đớn thầm kín, nặng nề, bộc lộ lên cảnh ngộ, thân phận của người phụ nữ xưa hay cũng chính số phận của Xuân Hương. Đồng thời, qua từng câu thơ còn hiện lên nhân cách, bản lĩnh và tài năng của nữ thi sĩ – Nữ sĩ có cuộc đời đầy bất hạnh, truân chuyên và đau khổ. Có lẽ tất cả những xô đẩy, vô tình của cuộc đời đã thấm đậm vào từng câu chữ, khoát lên ý thơ lớp áo buồn tênh, cô đơn, hiu quạnh đến lạ ngày từ những nhịp thơ đầu tiên:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đêm, hình ảnh chẳng mấy xa lạ trong thơ ca. Đó là khoảnh khắc vạn vật khép lại lớp vỏ dày cộm để phô bày ra dáng vẻ yếu ớt nhất đối diện với chính mình, với chính cuộc đời. Đó là lúc mà mỗi người lại lấy những nỗi trăn trở, suy tư được cất giấu tận sâu nơi đáy lòng ra gặm nhấm, giải bày. Đêm khuya của Hồ Xuân Hương cũng thế, nhưng nó không ngập tràn sắc trăng như Hàn Mặc Tử, không lập lòe ánh đóm như Nguyễn Khuyến. Nó hiện lên qua tiếng “văng vẳng” từ xa đưa về, len lõi giữa không gian bao la, mênh mông mà đặc sánh. Tiếng trống đối với Hồ Xuân Hương dồn dập đến lạ. Từng tiếng trống canh mỗi khắc lại điểm, thời gian cứ vẫn trôi qua thật bình thản. Càng ở lâu trong màn đêm, đôi mắt con người ta như càng bị che mờ bởi bóng tối, nhận thức của bản thân như càng trở nên mơ hồ hơn trước thực tại, và tâm hồn lại dần lạc lối, chìm sâu vào cái vô thức của những nỗi niềm không tên tuổi. Người ta bảo: “Thức đêm mới biết đêm dài”, nhưng cớ sao người thi sĩ họ Hồ ấy lại cảm nhận được bước chân của thời gian mới vội vã và dồn dập đến thế? Phải chăng mỗi tiếng trống kia vang lên, người con gái thao thức giữa đêm ấy, thao thức vì cái nỗi “nước non” cô quạnh của chính mình giữa cuộc đời lại càng thấm thía, càng nhìn thấu, càng nghe rõ ràng hơn cái tiếng ken két của bánh răng thời gian cũ kĩ, rĩ xét mà nặng nề lăn từng nấc một, trôi qua một cách đầy phũ phàng và lạnh lẽo? Mỗi tiếng trống canh điểm lên không gian, nhanh như thế, năm canh thoát tàn tựa như cách mà thời gian điểm lên tuổi xuân của người con gái ấy những dấu ấn đếm ngược cô tịch đến chạnh lòng. Có nói, phải có ý thức trưởng thành và sâu sắc như thế nào về “cái tôi” mới có sự thấu hiểu đến mạnh mẽ như thế về thời gian kia. Một không gian nghệ thuật hiện lên giữa cái cảm thức về cái tôi và dòng chảy thời gian. Thời gian của nghệ thuật, của khách quan là vô thủy vô chung, nhưng thời gian thực tế của một đời người là hữu hạn, gói gọn và bé nhỏ. Rồi giữa cái nhỏ bé ấy, tuổi xuân của người phụ nữ lại càng ngắn ngủi đến đau lòng biết nhường nào.
Trước sự giục giã, hối thúc của thời gian trong nhịp đập dồn dập của tiếng trống, người thi sĩ như bị bủa vây bởi những rối bời, những lo âu, buồn tủi, bởi những nỗi niềm không thể cất nên lời, không thể chia sẻ cùng ai, chỉ đành ôm lấy nó mà gặm mòn trong đêm thâu thao thức. Mãi đến khi nó chỉ còn lại cái xác bẽ bàng trước sự vô duyên, vô phận đầy hờ hững, còn lại một cái “trơ” đầy ý vị và nghệ thuật. Giọng thơ bỗng trĩu xuống như tăng thêm nỗi cô đơn và chán chường của thi sĩ. Những bão táp đã mài giũa một hồn thơ trơ trọi, lẻ loi, cô đơn và đầy tủi hổ trở thành cái hồn trơ lì như thách thức cùng tạo hóa, như một sự mỉa mai cho số phận cay đắng của bao “cái hồng nhan”. Dù “bảy nổi ba chìm” là thế nhưng cái tôi lại thôi thúc Xuân Hương mang lên mình cái bản lĩnh như: “Đá vẫn trơ ra cùng chén nguyệt” (Bà Huyện Thanh Quan).
Một con người máu thịt là thế lại như hóa thành gỗ đá, vô xúc, vô cảm. Một con người rành rành là thế lại bị cụ thể hóa thành mấy “cái” đồ vật vô tri vô giác, không có tiếng nói. Nếu Nguyễn Du cũng than thay cho số phận người phụ nữ bấy giờ: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” thì khi đến với Xuân Hương, ta càng nhận thức rõ ràng hơn cái thân phận của người phụ nữ trở nên rẻ rúng như thế nào giữa cuộc đời bất công đó. Từng nỗi phẫn uất như “dồn” nén trong lòng người, giết chết tất thảy những xúc cảm, những nhận thức trước sự đau đớn mà con người nên có, chỉ để lại một nhịp ngắt đảo ngữ đầy “trơ” trọi, một sự đối lập đầy đau thương giữa “cái hồng nhan”, giữa số phận người phụ nữ nói chung và Xuân Hương nói riêng khi cọ xát với “nước non”, với cái xã hội suy tàn. Nhưng dù là thế, một bàn tay chai sạn vẫn biết đau khi chảy máu, một con người có cứng cỏi đến đâu cũng không thể chịu đựng hết bao bất công và dày vò. Khi nỗi đau đủ thấm, cay đắng đủ dày, người phụ nữ ấy tìm đến rượu để quên như bao người phàm tục khác. Nhưng một lần nữa, càng đau đớn làm sao khi càng say càng tỉnh, càng say càng thấm thía hơn cái nỗi dày vò bất tận kia:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Mặt cho hơi men đã ngấm, chén rượu đã cạn, người thi sĩ vẫn quẩn quanh trong vòng tuần hoàn tựa như vô tận giữa say và tỉnh, giữa đau và quên. Rượu có mạnh đến mấy, uống có nhiều đến đâu cũng chẳng thể vĩnh viễn đưa con người thoát khỏi thực tại. Say lại tỉnh, tỉnh “lại” một lần nữa nhớ đến niềm đau. Đau của hôm qua, đau của hôm nay rồi đau cho ngày mai, một lần tỉnh là một lần nỗi đau lại nhân lên, rượu phai sầu ngấm, đến cuối cũng đành bất lực chẳng thể làm gì hơn, giật mình lại thấy càng thương xót cho chính bản thân mình như Lý Bạch:
“Rút gươm chém nước, nước chẳng đứt
Cất chén tiêu sầu, sầu chẳng vơi” (Lý Bạch)
Đêm đã tàn canh, rượu đã cạn, người say rồi lại tỉnh mà nỗi đau vẫn chầu chực bên đầu gối, đưa mắt tìm ánh trăng thủ thỉ, thức ánh sáng duy nhất trong màn đêm cô tịch lại càng bẽ bàng hơn cho một tâm hồn. Thật đúng với câu: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Ánh trăng thường được ví như tuổi xuân của người phụ nữ. Ai đó từng nói: con gái mười sáu như ánh trăng rằm đầy đặn, trong trẻo. Thế nhưng với Hồ Xuân Hương, một ánh trăng tròn trịa thật là cái gì đó xa vời và ảo tưởng. Vầng trăng của tạo hóa khuyết rồi lại tròn, còn vầng trăng của Xuân Hương lại chưa một lần tròn vẹn, nó lỡ làng như chính cái tình duyên của nữ thi sĩ. Giờ đây trăng đã “xế”, tuổi xuân sắp tàn nhưng tình duyên lại chưa một lần đủ đầy. Thử hỏi tuổi xuân của người phụ nữ có thể tồn tại qua bao nhiêu mùa trăng như thế để mà chờ đợi nữa đây? Câu thơ như rướm từng giọt máu, rĩ từng giọt nước mắt cay đắng của một người khao khát tình yêu chân thành đến khắc khoải tháng ngày. Tiếng nấc nghẹn ngào dâng lên cuống họng, lan tỏa ra bốn bề cảnh sắc rồi chìm nghỉm trong bóng đêm bi kịch của cuộc đời.
Giấy không gói được lửa, ánh trăng như giọt nước tràn ly cho tất cả những nỗi uất nghẹn bị “dồn” nén từ những câu thơ đầu tiên. Con người của Hồ Xuân Hương thôi thúc nữ sĩ đứng lên phá tan lớp vỏ bọc đã nhàu nát mà đối diện, đương đầu với cuộc đời:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nữ sĩ đã đưa cái tôi của mình vào thơ, trưng ra tính nỗi loạn mà làm vỡ tung hệ thống ước lệ của văn học trung đại. Xuân Hương nắm lấy trực cảm nghệ thuật mà xây dựng lên thế giới thơ văn ngồn ngộn sắc màu, thanh âm với những đường nét tươi mới trên từng câu thơ như một sự thức tỉnh cho cuộc đời người phụ nữ, cho cuộc đời trắc trở của chính mình. Với nghệ thuật đối kết hợp với hệ thống đảo ngữ đầy sáng tạo vào mạnh mẽ, Hồ Xuân Hương đã ban cho những đám “rêu”, những hòn “đá” cái sức mạnh để “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”. Những thứ tưởng chừng vốn nhỏ bé, vô tri, hiền lành bỗng chốc vùng dậy đầy mãnh liệt, phá tan tất cả, làm rung động cả đất trời như muốn biến đổi những thứ trường tồn của tạo hóa, phủ lấp những bất công của cuộc đời, những lề thói, định kiến xã hội trước nỗi uất ức của nữ thi sĩ. Hồ Xuân Hương đã mang cái nổi loạn của mình cho thiên nhiên mượn, lấy sức sống mãnh liệt của mình để nhờ vào thiên nhiên, ẩn dụ một cách cứng cỏi, ngang ngạnh, quyết liệt và hiên ngang. Dữ dội thay một lời thách thức của cái bản lĩnh không khuất phục, mạnh dạn đứng lên trên chính bi kịch của đời mình. Hai câu thơ vang lên nỗi khát vọng lớn không riêng Hồ Xuân Hương mà còn của các kiếp hồng nhan bạc mệnh cho một hạnh phúc vẹn tròn. Nữ sĩ đã đem cái hạnh phúc ấy xô lệch cái diện mạo trang nghiêm, đạo mạo của nền Hán học.
Tiếc thay sức lực nhỏ bé, lại độc hành trên con đường của chính mình, Hồ Xuân Hương như vùng vẫy mãi cũng chẳng thoát khỏi vũng bùn của số phận:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Hình ảnh mùa xuân tràn về đầy lạ lẫm, nó không khiến cho câu thơ vương theo khí xuân ấm áp, êm dịu mà như gáo nước lạnh tạt thẳng vào tâm hồn trơ trọi của tác giả. “Xuân” của Xuân Hương ẩn chứa thật nhiều tầng nghĩa, mùa xuân của đất trời và mùa xuân của người phụ nữ. Lại một tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương trước thực cảnh trái ngang. Mùa xuân của đất trời cứ trôi qua vô hạn, cây cối của đất trời mãi sinh sôi và đơm hoa thơm ngát. Nhưng đóa hoa tình duyên của Hồ Xuân Hương có lẽ chẳng thể nở rộ trong kiếp này, hoặc lâu hơn nữa khi cái xã hội mục nát này còn tồn tại. Mùa xuân của nữ sĩ đã đi vào thời khắc “xế” tàn chẳng thể vãn hồi. Dù tính cách ngang ngạnh và cứng cỏi đến đâu, một cái vùng vẫy lẻ loi của Xuân Hương chẳng thể khiến càng khôn thay đổi, chẳng thể né tránh số kiếp định sẵn của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến bấy giờ.
Giữa cuộc đời có hạn, một tuổi xuân ngắn ngủi là mảnh tình góp nhặt càng bé nhỏ và tội nghiệp. Tình duyên vốn đã chẳng vẹn tròn mà tạo hóa lại càng trêu người khi một “mảnh tình” đó bà cũng chẳng thể giữ gìn nó đến cuối đời. Phép tăng tiến ngược được vận dụng một cách tài tình trong tiếng cười đậm chất mỉa mai trước cuộc đời. Từng nhịp thơ ngắt nhịp rời rạc, đứt quảng như từng tiếng thở dài xót xa, ngao ngán, như tiếng cười chua chát cho cái số phận chẳng thể nào đáng buồn cười hơn. Tự hỏi Xuân Hương vẫn chưa chịu đủ đắng cay hay sao, những gì Xuân Hương có chưa đủ ít ỏi hay sao? Số phận vốn éo le, ngang trái nay lại càng đáng thương đến muôn phần. Mảnh tình bé tí là thế nay còn phải “san sẻ”. Thật muốn hỏi thay phải san sẻ cho ai? San sẻ để làm gì mà rồi khiến nó càng bé nhỏ đến cùng cực, đến hèn mọn như thế. Thật đáng thương và tội nghiệp.
Bài thơ khép lại trước sự vùng vẫy vô vọng của người con gái khổ mệnh. Xuyên suốt nhịp thơ, tiếng lòng thổn thức tràn ngập trên từng câu chữ, chất chứa tất cả những tâm tình, những nỗi niềm thiết tha, nghẹn ngào, buồn tủi của người phụ nữ trước số phận nghiệt ngã. Bài thơ là một trang đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc trước sự đồng cảm của Hồ Xuân Hương với số phận của người phụ nữ phong kiến, trước những tiếng lòng đau thương, sự gắng gượng đầy tuyệt vọng giữa vòng xoáy bi kịch hẩm hiu của cuộc đời nữ sĩ. Đồng thời mượn lời muốn nói cho những kiếp hồng nhan, Xuân Hương bộc lộ những đòi hỏi, khát khao chính đáng về quyền sống và quyền hạnh phúc qua từng tầng ngôn ngữ đặc sắc đến sâu sắc, những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm được vận dụng khéo léo và thành công như xứng danh “Bà chúa thơ Nôm” ở đời.
Nhất Tiêu Bác Quân Aka (4 năm trước.)
Level: 7
Số Xu: 4499
Ủng hộ tinh thần thôi. Cố gắng lên nhé tác giả
Nhất Tiêu Bác Quân Aka (4 năm trước.)
Level: 7
Số Xu: 4499
Bài viết logic và lôi cuốn. Lời văn khá mượt
Giai Mộc (4 năm trước.)
Level: 9
Số Xu: 4866
Viết để chuẩn bị thi học kì nhưng lại không ra bài này :D khóc một dòng sông luôn TvT