Sự giao thoa giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác của Thạch Lam và Nam Cao

Sự giao thoa giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác của Thạch Lam và Nam Cao
Thích

Sự giao thoa giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác của Thạch Lam và Nam Cao 

(“Đói” của Thạch Lam; “Từ ngày mẹ chết” của Nam Cao)

 

       Chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực là hai trào lưu văn học lớn trong lịch sử. Hai trào lưu này có những đặc điểm tương phản nhau nhưng đồng thời cũng có những sự giao thoa với nhau. Sự giao thoa này được thể hiện rõ qua hai tác phẩm “Đói” của Thạch Lam và “Từ ngày mẹ chết” của Nam Cao. Thạch Lam là cây viết tiêu biểu cho văn học lãng mạn, còn Nam Cao là một đại diện cho văn học hiện thực.

       Về nhân vật, trong “Đói” và “Từ ngày mẹ chết” đều có con người bất bình với thực tại và chối bỏ thực tại. Bằng mọi cách, các nhân vật không hài lòng với thực tại, hiện thực, họ chối bỏ, phản kháng, chỉ hoài niệm về quá khứ đã qua, lẩn tránh thực tại bằng cách kết thúc cuộc đời mình.

       Đấy là chàng Sinh của “Đói”, có công ăn việc làm, có một mối tình như mơ với cô vợ hoa khôi chốn phong nguyệt, và luôn có thái độ “khinh bỉ” đối với những con người đói và nghèo khổ vì chàng chưa bao giờ phải nghĩ hay lo âu đến chuyện ăn uống hoặc cảm giác đói là gì “chàng cho rằng miếng ăn là một sự không đáng kể, chỉ có cái thanh cao trong sạch của linh hồn mới là cần”. Một con người luyến tiếc quá khứ, cái thời oanh liệt chẳng còn. Một chàng Sinh với tâm trạng buồn, chán chường, bất lực và ảo não xuất hiện ở đầu truyện “cũng như những buổi sáng khác, một cái buồn rầu chán nản, nặng nề ở đâu đến đè nén lấy tâm hồn” và cho đến cuối truyện vẫn là trạng thái đó khi giận vợ “cái giận dữ đã tan đi, để lại một nỗi buồn rầu chán nản vô cùng” và khi chàng đã ăn những miếng thịt do vợ mua về từ đồng tiền “bán thân” mà ra “một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người”. Hay cái mong muốn kết thúc sinh mệnh của chính nhân vật Sinh khi không thể đối diện được với cuộc sống nghèo khổ, đói khát “chàng chỉ muốn chết ngay lúc bấy giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá đè ở trên vai…” và khi nghĩ đến những ngày đói rét khổ sở đã qua dến những năm sống trong cảnh nghèo nàn “Sinh uất ức căm giận cho cái số phận của mình”. Đó là cái tình điệu chung của các nhân vật lãng mạn tiêu cực.

       Và nhân vật thầy, với vai trò là một người cha trong truyện ngắn “Từ ngày mẹ chết” cũng không thể chịu được khổ sở, vất vả khi lâm vào cảnh gà trống nuôi con. Một người đàn ông góa vợ phải chăm sóc hai đứa con nhỏ là một việc rất khó khăn, tuy ban đầu nhân vật đã cố gắng vào vai một người cha tròn trách nhiệm, nhưng nhân vật không duy trì được lâu. Rồi cuối cùng nhân vật thầy luôn “vắng nhà” luôn “đi suốt ngày suốt đêm”. Nhân vật đi đâu? Sao đi lâu và nhiều thế? Đấy cũng là câu hỏi của Ninh – cô con gái luôn thắc mắc về thầy mình, cho đến khi cô bé nhận được đáp án từ người bà của mình, thầy đi chơi bạc… Một người cha trốn tránh trách nhiệm lao đầu vào bài bạc, xóc đĩa, rượu chè đến thân tàn ma dại, khuynh gia bại sản đến nỗi phải bán dỡ nhà trước mắt con cái.

       Và Ninh, từ ngày mẹ chết, cô bé luôn khóc, luôn thẫn thờ, buồn rầu và rũ rĩ, ngơ ngẩn như mất vía, và nhớ bu. Cô bé nhớ người mẹ của mình, nhớ về thời gian hạnh phúc khi mẹ vẫn còn sống và còn khỏe mạnh. Một gia đình tuy nghèo khó nhưng còn bu còn thầy để lo toan chăm sóc cho gia đình, cho những đứa con thơ, một mái ấm hạnh phúc luôn là điều Ninh muốn và nhớ. Người thầy đi biệt đã để lại Ninh, một đứa trẻ cùng một đứa em nhỏ bơ vơ – Đật, đói khổ và tủi nhục. Ngoài ngoái nhìn lại hạnh phúc thuở còn mẹ thì cô bé không biết làm sao để đối diện với cuộc sống nữa.

       Không chỉ dừng lại ở bất bình hay chối bỏ thực tại, các nhân vật còn bị hoàn cảnh nhào nặn đến tha hóa, bị biến thành những đứa con đẻ của hoàn cảnh. Họ dễ dàng thỏa hiệp với những điều tầm thường, họ sẵn sàng bán mình để cuộc sống dễ thở hơn để rồi người họ chán ghét lại là chính bản thân mình. Những con người bị hoàn cảnh nhào nặn, đè bẹp.

       Là chàng Sinh, một con người “khi còn đủ ăn đủ mặc, chàng không hề để ý đến cái đói, không bao giờ nghĩ đến” để rồi khi cái đói hành hạ, khi đã hiểu hết cái đói mới ngậm ngùi thấy rõ “sự cần dùng của thân thể tràn áp được hết cả những lệ luật của tinh thần”. Một con người đã bị cuộc sống khổ cực mài mòn đi chỉ để lại những điều có thể thích nghi, tạo ra giá trị mới cho bản thân. Trước kia sung túc khinh bỉ cái thực dụng, đề cao tinh thần thanh cao trong sạch, bây giờ nghèo đói mới quý trọng miếng ăn. Đấy chưa phải là sự tha hóa lớn nhất của nhân vật, mà phải là lúc nhân vật biết được sự thật những đồng tiền, miếng ăn mà vợ mình mang về là do bán thân đổi lấy, sau sự giận dữ còn lại với Sinh là cơn đói dày vò cào ruột xé gan là dáng vẻ “lấm lét” và “sợ hãi” khi Sinh vớ lấy miếng thịt “ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt”, “luôn luôn đưa vào miệng”, cái cách ăn của nhân vật chẳng phải là cách ăn của một con người nữa, lấm lét, sợ hãi và tới tấp như một con thú đói khát thèm thuồng. Cái đói đã khiến nhân vật đánh mất tự trọng, dẫm nát giá trị luôn đặt ra cho bản thân. Để rồi cuối cùng đổi lại là sự chán ghét bản thân dễ dàng thỏa hiệp trước hoàn cảnh, ghét bản thân vì quá “chiều đời”.

       Là nàng Mai – vợ Sinh, một “người đàn bà xưa nay vẫn quen đài điếm phong lưu” cũng không thể chịu được cái đói mà quen đường cũ với khách làng chơi để đổi lấy đồng tiền. Không thể nói là Mai hoàn toàn không “dấn thân” vào cuộc sống khi mà trong nhà hết gạo, trên người không còn một đồng xu, nàng đã chạy đôn chạy đáo nhờ vả hàng xóm láng giềng giúp đỡ, nhưng đều không được. Cuối cùng nàng đành chấp nhận thỏa hiệp theo đường cũ mà đổi lấy chút tiền kiếm cơm cho cả người chồng đã đói là ở nhà. Để đến khi chồng phát hiện, nàng hoảng sợ “mặt xám đi, hai tay ôm lấy đầu, người run lẩy bẩy” và khóc nức nở.

       Là sự tha hóa của nhân vật thầy trong “Từ ngày mẹ chết”, người làm cha đã tự đánh mất đi nhân cách làm cha của chính mình. Bỏ bê con cái đi biền biệt, lao mình vào bài bạc, xóc đĩa, rượu chè đến nỗi phải bán nhà trả nợ. Không phải là không thương con, mà chính nhân vật đã cố gắng thay người vợ đã chết chăm sóc hai đứa con nhỏ, dỗ con khóc đòi nhớ mẹ, lạnh ủ ấm nhường chăn, nóng quạt gió thâu đêm ngày để khi con gái tỉnh giấc thấy thầy “thở dài” và “có khi sụt sịt”, “đêm đêm thầy vẫn khóc”. Tiếng khóc cho phận mình khổ, khi mà mãi khóc cho mình thì sẽ quên mất rằng người khác cũng khổ và thầy quên luôn trách nhiệm làm cha của mình. Sa thân vào bài bạc rượu chè, nợ nần đến bán nhà trả nợ, làm cho đứa con gái phải òa khóc gọi người mẹ đã mất lâu rồi “Bu ơi là bu ơi!…” vì sợ.

       Cả văn học hiện thực và văn học lãng mạn đều có mở rộng thêm đề tài (chính chủ nghĩa hiện thực đã kế thừa chủ nghĩa lãng mạn). Trong hai tác phẩm này đã đưa vào những cái hằng ngày, thường nhật kể cả cái hèn kém, xấu xa vào nghệ thuật (bối cảnh, đề tài “đói”, sự tha hóa của con người).

       Bên cạnh đó thì ta có thể thấy bối cảnh đời sống của hai tác phẩm này đều được miêu tả rất chân thực và thể hiện rõ tính cách nhân vật trong hoàn cảnh, giằng xé, chống chọi với cái đói với từng miếng ăn. Đấy là đời sống thường nhật, bình thường không mang tính lịch sử.

       Trong “Đói” của Thạch Lam, cái khốn khó, cái nghèo đói được miêu tả rất tỉ mỉ và đậm chất hiện thực. Khung cảnh trong phòng hiện ra cực kì đơn sơ và thiếu thốn: một cái bàn con xiêu vẹo bên góc tường, một cái chõng tre đã gẫy dăm ba nan, một cái ấm tích mất bông, mấy cái chén mẻ, nước cáu vàng… Sự gầy gò khổ sở của người vợ: thân hình mảnh dẻ gầy gò trong chiếc áo the mỏng phong phanh, đôi con mắt buồn rầu. Và những cơn đói quẩn quanh như chính cơn gió, qua lại cồn cào “đói như cào ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa lên”, “cơn đói lại nổi dậy như cào ruột, xé gan, mãnh lệt, át hẳn cả nỗi buồn”.

       Và “đói” trong “Từ ngày mẹ chết” cũng hiện ra rất hiện thực. Nếu trong “Đói” của Thạch Lam cụ thể là cái đói của một cặp vợ chồng khốn cùng với diễn biến tâm lý của Sinh thì cái đói trong “Từ ngày mẹ chết” của Nam Cao lại là cái đói của rất nhiều người (chị em Ninh, nhà bác và những đứa con). Là cảnh chị em Ninh hết gạo phải ăn nhờ nhà bác mấy ngày liền khiến bác phải nói rằng “hết gạo”, ai cũng đói. Là cảnh Ninh đi moi củ dong về nướng, rồi cả củ ráy… Là cảnh cu Đật lẻn sang nhà bác xin ăn đến nỗi bị giành lại nắm cơm. Là cảnh bà ngoại mang nắm xôi lên chia đôi cho hai chị em, “Đật ngồm ngoàm. Ninh thong thả.” Khiến bà nhìn cháu ái ngại và thở dài.

       Về nhan đề tác phẩm, “Đói” của Thạch Lam vừa thể hiện rõ hoàn cảnh của tác phẩm để nhân vật trải qua, chống cự và cuối cùng là thỏa hiệp, và trong hoàn cảnh thực tế “đói” ăn đói uống không cho phép nhân vật được “no” về tinh thần, các giá trị tinh thần cũng theo đó mà “đói” theo. “Từ khi mẹ chết” của Nam Cao dùng từ “chết” chứ không phải là mất, là cái cách tác giả thể hiện trần trụi sự bất hạnh của các nhân vật sau cái chết của người mẹ mà không nhất thiết phải nói giảm nói tránh, chẳng hề che giấu như “mất” mà “chết” là thể hiện ra hết: chồng con khóc thương, chồng tha hóa, con cái khổ sở vì đói.

       Trong hai tác phẩm này cũng được hai tác giả sử dụng các hình ảnh ẩn dụ. Ở “Đói”, ta bắt gặp những cơn gió lướt qua lần nào là mang đến cơn đói cồn cào cho Sinh, là cơn gió thổi về hiện thực, kéo Sinh từ suy tư mơ mộng quá khứ để trở về thực tại: “cơn gió lọt vào làm Sinh tỉnh giấc”, “buổi chiều đem theo những cơn gió lạnh lùng”, “một cơn gió thổi vào làm Sinh lạnh buốt tới xương, chàng thấy đói”, “một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình… cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé gan…” những cơn gió cứ dai dẳng, quanh đi quẩn lại như cái hiện thực mà nhân vật chẳng thể thoát li nổi. Còn ở “Từ khi mẹ chết”, ở cuối tác phẩm có nhắc đến âm thanh của “tiếng dùi đục kêu chan chát” khiến Ninh nghe rợn người, đấy là âm thanh Ninh đã được nghe vào ngày mẹ chết: “người ta đóng cả chiếc săng của mẹ”. Ấy là âm thanh dùi đục của người thầy kêu về dỡ nhà bán, âm thanh được nhắc lại qua lời kể của nhân vật Ninh, ám ảnh, kinh sợ, ghê rợn… Một lần vang lên khi mẹ mất, một lần vang lên khi người thầy trở về nhưng đã tha hóa, thay đổi. Bu đã mất, chẳng lẽ giờ lại mất cả thầy? Để khiến Ninh phải òa lên khóc gọi mẹ: “Bu ơi là bu ơi!…” đầy xé lòng.

       Qua phân tích hai tác phẩm “Đói” của Thạch Lam và “Từ khi mẹ chết” của Nam Cao ta thấy được cả chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong văn học có sự giao thoa. Đó là sự giao thoa về cách thể hiện thế giới quan của tác giả qua tác phẩm: bất bình với thực tại. Và cả mở rộng đề tài trong tác phẩm là sự kế thừa của chủ nghĩa hiện thức với chủ nghĩa lãng mạn.

***

Bài cùng chuyên mục

Audio truyện full

phàm nhân tu tiên audio

tiên nghịch audio

vũ thần chúa tể audio

thế giới hoàn mỹ audio

vô thượng thần đế audio

van co than de

Bảo Hộ Tộc Trưởng Phe Ta audio

Truyện ebook dịch full

bắt đầu 3000 lượt rút thăm, ta trực tiếp thành bá chủ dị giới

bất diệt thần vương

chư giới tận thế online

đại phụng đả canh nhân

sư huynh ta quá ổn trọng