- Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh Kí”
- Tác giả: Giai Mộc
- Thể loại:
- Nguồn: Vnkings.com
- Rating: [K] Mọi độ tuổi đều đọc được
- Tình trạng: Đã hoàn thành
- Lượt xem: 7.733 · Số từ: 1656
- Bình luận: 3 · Bình luận Facebook:
-
Lượt thích: 3 Đặng Thị Mỹ Anh Nhất Tiêu Bác Quân Aka Saint Eguard
Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820, là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Ông là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng Nguyễn Du trải qua một cuộc đời đầy thăng trầm, sóng gió trong một thời kì xã hội Việt Nam có nhiều biến động. Có lẽ vì vậy mà ông có cái nhìn và suy ngẫm sâu sắc về số phận con người. Nguyễn Du đồng cảm và xót thương cho tất cả những mảnh đời khổ mệnh, những con người tài sắc mà bất hạnh. Ông không chỉ khóc thương cho nàng Kiều, mà còn khóc thương, đồng cảm sâu sắc cho Tiểu Thanh – người con gái hồng nhan bạc mệnh qua bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” được viết bằng chữ Hán in trong “Thanh Hiên thi tập”.
“Độc Tiểu Thanh kí” có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh kí” của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du hơn 200 năm trước ở đời Minh, Trung Quốc. Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng 16 tuổi phải đi làm lẽ cho một nhà quyền quý. Lại bị vợ cả sinh lòng ghen tuông, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Vì cô đơn, buồn rầu, nàng sinh bệnh mà chết khi chỉ mới tuổi 18. Sinh thời, nàng để lại hai tập thơ nhưng đều bị vợ cả đem đốt, chỉ còn lại một số bài thơ trong tập “phần dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh lại để lại cho Nguyễn Du – con người của hơn hai thế kỉ sau những nỗi niềm và tình cảm đặc biệt, sâu sắc.
Nếu Thuý Kiều đến với Đạm Tiên qua nắm đất sè sè bên đường thì Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh qua một “mảnh giấy tàn”:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.“
Bài thơ mở đầu với một bức tranh đối lập đầy trớ trêu giữa quá khứ và hiện tại, giữa cảnh đẹp rực sắc và sự hoang tàn. Từ “tẫn” đã gợi ra một sự thay đổi khốc liệt đến tận cùng, như càng nhân đôi lên sự thương cảm, ngậm ngùi cho nơi gò hoang ấy. Từ vườn hoa đến gò hoang là một sự thay đổi lớn khiến Nguyễn Du đau lòng nhận ra cái đẹp bị hủy diệt bởi sự vô tình của tạo hoá. Sự đổi thay sớm đã trở thành nguồn cảm hứng rất lớn trong văn học trung đại. Rất nhiều người bâng khuân về sự thay đổi ấy, nhưng ở Nguyễn Du, nó không chỉ là đổi thay của cảnh mà còn là sự đổi thay của cuộc đời: bãi bể đã hoá nương dâu.
Đằng sau câu thơ, ta có thể nghe được tiếng thở dài, xót xa, tiếc nuối của tác giả trước một cảnh đời. Rồi từ những thay đổi của cảnh, tác giả đã hình dung lên những thay đổi của đời người từ xưa đến nay. Nguyễn Du cho ta thấy cái phận người xưa ấy – nàng Tiểu Thanh nổi tiếng tài sắc mà nay chỉ còn lại một tập thơ bị người đốt dở. Cái xót lại của cả một đời người xinh đẹp và tài hoa, cái nơi gửi gắm những nỗi niềm của Tiểu Thanh vùi sâu trong biển lửa, chỉ còn lại cái gọi là “phần dư”. Rồi cái còn lại ấy, giữa một không gian điêu tàn, con người thi sĩ của 200 năm sau hiện lên với dáng vẻ cô ơn, “độc điếu”, ngồi bên song cửa dở từng trang “dư cảo” lại khiến cho một tâm hồn phải ngậm ngùi, thương cảm. Ý thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng, thành kính của nhà thơ với di cảo của Tiểu Thanh, đồng thời qua từ “điếu” nói lên sự đồng cảm sâu sắc trước số phận của nàng. Không phải “thổn thức” mà là giọt nước mắt lặng lẽ thấm vào trong, là giọt nước mắt xót xa cho một hồng nhan bạc mệnh, cho một “mảnh giấy tàn”, cho một di cảo của nàng cũng tựa như di hận:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.”
Nguyễn Du nói đến Tiểu Thanh bằng những hình ảnh đối mang tính ước lệ, tượng trưng quen thuộc. Hai vật thể vô tri ấy đã được nhà thơ nhân cách hoá để trở thành có “thần”, có “hồn”. “Son phấn” – là nhan sắc, là phận hồng nhan nói chung và Tiểu Thanh nói riêng. Còn “văn chương” – là tài trí, là Tiểu Thanh, là những kẻ có tài năng trong xã hội lúc bấy giờ. Tất cả đề bị huỷ hoại, tàn phá khi mà “son phấn” ấy bị chôn dưới ba tất đất, “văn chương” kia thiêu rụi giữa ngọn lửa tàn. Tạo hoá thật trêu người khi chính tài sắc là nguyên nhân cho mọi tai hoạ giáng xuống cuộc đời nàng. Bởi vậy Nguyễn Du từng viết:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.”
Giọt nước mắt xót thương của Nguyễn Du bắt nguồn từ sự ngưỡng mộ tài sắc của Tiểu Thanh. Có hiểu rằng xã hội phong kiến vốn phủ nhận tài hoa, trí tuệ của người phụ nữ thì mới thấy hết chiều sâu nhân đạo trong tiếng khóc của Nguyễn Du. Chính sự đồng cảm ấy là sợi dây kết nối Nguyễn Du với Tiểu Thanh và những tâm hồn đồng điệu, đồng mệnh khác, cái tiếng khóc cho những kẻ: “Nghìn thu bạc mệnh, cả đời tài hoa”.
Đằng sau nỗi cô đơn và tiếng khóc ấy, ta thấy được một lòng đau đang tìm đến một lòng đau. Từ khóc người, thương người, Nguyễn Du trở về khóc thương cho chính thân phận mình – một kẻ cũng tài hoa khổ mệnh, bị ông trời đầy ải, phải chịu số phận nghiệt ngã. Nguyễn Du cất lên tiếng khóc cho nỗi oan “thiên nan vấn”, tiếng khắc khoải, uất ức và bất lực trước số phận chung, nỗi oan nghiệt chẳng thể đổi dời:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.”
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du khái quát thành cái nhìn về những con người tài hoa trong xã hội phong kiến bấy giờ. Nỗi oan của Tiểu Thanh cũng là nỗi oan, là kết cục chung muôn đời của những người tài sắc. Nỗi hận ấy lại chẳng thể giải bày, chẳng thể giải đáp khi mà chính trời cũng chẳng thể cho họ một câu trả lời. Chính bằng sự trải nghiệm của bản thân, hay cũng là một người “khách” cùng mang cái “phong vận” ấy mà Nguyễn Du thấu hiểu nỗi đau của Tiểu Thanh, nỗi uất ức, bế tắc đến cùng cực, để rồi tự thương cho chính bản thân mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Gần ba thế kỷ trôi qua sau cái chết của nàng Tiểu Thanh, nàng đã tìm thấy sự đồng điệu, đồng cảm, thương xót nơi Nguyễn Du. Và giờ, Nguyễn Du lại tự hỏi, đến ba trăm năm nữa lại trôi qua, liệu rằng có ai sẽ thương xót cho Nguyễn Du? Thương xót cho một tâm hồn cô đơn, lạc lõng? Nhà thơ không hỏi quá khứ hay hiện tại mà hướng về tương lai, và chính điều này gợi cho người đọc về cuộc sống cô đơn hiện tại của tác giả khi chẳng thể tìm thấy sự đồng cảm, chẳng tìm tìm được một người tri kỉ để giải bày. Nguyễn Du hướng tới tương lai, mong cầu được sự thấu hiểu nơi hậu thế, mong cầu một tâm hồn nào đó sẽ “khấp” cho ông cũng như là cho những con người bạc mệnh. Từ “khấp” là một giọt nước mắt có chiều sâu, một nỗi đau chảy ngược vào trong, từ đó thấy được sự khao khát tìm được một tri kỉ thật sự thấu hiểu và sẻ chia nỗi cô đơn nơi tâm hồn Nguyễn Du.
Nỗi trăn trở, day dứt là thế, nhưng Nguyễn Du có lẽ đã may mắn khi chẳng cần chờ đến 300 năm sau, chỉ đến năm 1965, nhân ngày kỉ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu đã thay mặt cho hậu thế khẳng định trước vong linh đại thi hào dân tộc:
“Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
Hỡi người xưa của ta nay,
Khúc vui xin lại so dây cùng người.”
“Độc Tiểu Thanh kí” đã vận dụng thành công kết cấu thơ Đường luật với ngôn từ hàm súc, tinh tế, hình ảnh thơ sâu sắc, giàu ý nghĩa. Kết hợp với sự phá cách khuôn mẫu của thơ Đường luật, bài thơ là tiếng khóc lớn trải dài theo không gian và thời gian. Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh cũng là khóc thương cho chính bản thân mình. Đây là điểm mới mẻ trong thơ của Nguyễn Du khi trổi dậy cái ý thức cá nhân. Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề về quyền sống của người nghệ sĩ và điều cần tôn vinh, trân trọng những con người làm nên giá trị văn hoá tinh thần. Từ đó cho ta thấy một tâm hồn nhân đạo và tình thương người, thương đời cao thượng nơi Nguyễn Du.
Giai Mộc (5 năm trước.)
Level: 9
Số Xu: 4866
Dạ em cảm ơn đã góp ý ? em sẽ xem xét và sửa lỗi ạ
Nhất Tiêu Bác Quân Aka (5 năm trước.)
Level: 7
Số Xu: 4499
Cố gắng lên nhé em.
Nhất Tiêu Bác Quân Aka (5 năm trước.)
Level: 7
Số Xu: 4499
Phân tích đầy đủ rõ ràng. Tuy nhiên vẫn còn sai vài lỗi chính tả nhỏ.