Chương 16: Ăn cơm chúa
Trà thơm rót vào chén gốm, tay ngà dâng hầu, giọng Bắc Hà thánh thót mời đức ông trong nhà, nhưng Binh bộ Thượng thơ Hồ Đắc Hiển lại mạnh tay gạt đổ, gạt luôn cả bàn đóm châm thuốc. Tiếng đổ vỡ từ phòng ông lớn làm âm ỉ màng nhĩ tất cả mọi người trong nhà.
“Thằng Tĩnh mô*? Thằng Tĩnh mô rồi?” Ông Hiển vừa đập bàn vừa gọi.
*Mô: đâu
Tĩnh vừa từ sông Hương về đây, đàn còn đeo trên lưng, quà còn cầm trên tay. Cậu thở dài, đưa đàn và quà Sang tặng cho thằng Hiền đem về phòng cất, mình thì cởi giày đi hầu cha. Giờ phòng của ông như bãi hoang tàn, dì Đào đứng hầu ở bên run cầm cập. Tĩnh đứng khép chân, tay đan vào nhau, lễ phép cúi đầu:
“Dạ, con thưa cha, con xin được hầu cha.”
Ông Hiển còn giữ tẩu thuốc trên tay, rít một hơi dài, thong thả nhả những vòng khói xám lên trời:
“Mi mới đi chầu chực thằng Tây con về đấy hỉ?”
“Dạ thưa cha, trước chừ con luôn tôn trọng cha, xem cha như bậc trưởng thượng cao quý nhất, rứa* cho nên con trai cha chẳng cần chầu chực chầu thằng Tây con nào cả.”
*Rứa: thế
Ông Hiển đánh tẩu thuốc kêu cạch lên thành bộ ván gỗ, lườm mắt sang thằng út nhà mình, nó dần chai lì với sự uy hiếp của kẻ trưởng thượng trong nhà, ấy là nhờ vào sự bao che của một kẻ tự cho mình là trưởng thượng. Cậu cả Hồ Đắc Trung đã đứng ở đằng sau, sẵn sàng tiếp ứng cho em mình. Ông hừ lạnh, hạ giọng xuống:
“Mi ngồi đi.”
Tĩnh thở phào một hơi, tìm chỗ sạch sẽ trong đống lộn xộn để ngồi xuống, nghiêm cẩn lắng nghe lời cha dạy. Ông Hiển rít một hơi thuốc, thả những vòng khói xám ngắt lên trời, giọng hơi khàn đi, tựa như nói ra điều này là rất bất đắc dĩ:
“Mi có gặp thằng nớ* ngày mai thì nói với hắn đừng trốn Hoàng thượng nữa.”
*Nớ: đó
“Thưa cha, con chưa được hiểu rõ.”
Ông Hiển trở ngược tẩu thuốc, gõ nó lên chiếc bàn con cho tàn tro rơi hết ra ngoài, cũng trút cả bực dọc nhận từ triều đình, một góc tẩu gỗ bị nứt ra.
Hoàng đế muốn mời Sang vào cung cùng ăn một bữa cơm, trước vinh danh người đã dốc túi vì đồng bào, làm rạng danh dân Nam ở xứ người, sau thắt chặt tình tâm giao với công sứ Pháp, bởi vì Sang là con nuôi của quan Toàn quyền. Đây vốn là điều vinh dự, nhưng Sang lại né tránh, ba lần người trong cung đến mời thì ba lần không thấy anh ở nhà, người bảo đi đông, người nói đi tây, có hôm còn bảo đang cần đi khám bệnh, sợ rằng đã mắc bệnh truyền nhiễm rồi.
“Mi nói mần răng* mà hắn trốn Hoàng thượng như trốn cọp rứa?”
*Mần răng: làm sao
“Thưa cha, thiên hạ có câu “gần vua như gần hổ”.”
Tĩnh nói rồi lảng tránh cái lườm sắc hơn dao cạo của cha mình, song ông không nổi giận với cậu, vì giận cậu là giận bản thân mình, triều đình bất lực, không thể là cột chống trời cho đất nước đang ngửa nghiêng, bệ rồng cũng theo cơn loạn mà bị xô lệch, vua ngồi yên đã khó, nói chi lèo lái triều đình, một người hai chân vững chãi, có cha nuôi Toàn quyền chống lưng cho thì làm sao bị doạ sợ được.
“Thôi, chừ* tối rồi, mi về phòng rửa tay rửa mặt, nghỉ ngơi đi, mai đi làm tuyên sứ cho tốt.”
*Chừ: giờ
“Dạ.” Tĩnh chắp tay làm lễ chào cha rồi quay trở về phòng mình.
Đàn đã được thằng Hiền treo cẩn thận trên vách tường, quà thì để trên bàn, nó cũng đã chuẩn bị nước ấm cho cậu rửa tay, rửa mặt. Tĩnh rửa mặt, rửa tay rồi thay áo, ngả người trên giường. Chợt, cậu nhổm dậy, ôm hộp quà Sang tặng mình lên giường, cẩn thận mở từng lớp giấy bọc.
Ánh sáng nhàn nhạt loé lên từ hộp, nó là sự phản chiếu lại của ánh đèn đêm từ một vật được tráng men ở trong ấy. Một bộ ống cắm bút Bát Tràng. Đây là quà Hà Nội của Sang, do anh tự tay chọn ở làng gốm Bát Tràng, dòng chữ Hán [Tặng người tri kỷ] màu xanh trên lớp men trắng cũng là anh nhờ họ viết lên.
Ba ngày qua, anh đi đi về về giữa Huế và Hà Nội, ngày đi thăm cha ruột, tối về gặp cậu, vì sợ điều tiếng, anh đi trong bí mật, tới cậu ruột của anh còn không biết tung tích, chỉ nghĩ là anh trốn cánh nhà báo nên tạm lánh đâu đó ở ngoại thành thôi, cho nên lời mời cùng đến ăn cơm của Hoàng đế chưa bao giờ tới tai anh được.
Tĩnh nghĩ chắc giờ Sang đang lên tàu ra lại Hà Nội rồi. Nhưng hiện tại thì Sang vẫn đang lang thang trong những con hẻm ở Huế.
Đáng lý ra giờ này anh nên ở trên tàu, nhưng vừa nãy anh đã nhường tấm vé tàu cuối cùng cho một người cần đi gấp ra Hà Nội thăm bà con. Vì vậy, bây giờ Sang đang lang thang một mình giữa những con phố ở Huế.
Những lúc thế này, anh cảm thấy thoải mái lạ kỳ, đường đêm rộng thênh thang, gió ùa về lùa vào mái tóc, những lúc thế này, Sang thường bỏ mũ ra ngoài rồi hất tóc lên, đã có bóng đêm che giúp khuôn mặt nên anh không ngại gì cả, cứ hiên ngang mà đi. Trên tay Sang đang cầm chai rượu đế Gò Đen, đặc sản Nam Kỳ anh mới mua ở nhà ga, định bụng sẽ ôm chai rượu này đến một quán ăn đêm nào đó, lai rai mấy ly trong lúc chờ chuyến xe lửa khác, anh còn hai tiếng nữa.
Có một quán ăn nhỏ còn sáng đèn ở một góc đường nọ, khói trắng vươn tay ra dụ dỗ khách đường xa, Sang tò mò rẽ qua đó.
Anh nghe mùi khói, đoán đó là một quán bán nem lụi, một thứ đặc sản của vùng đất kinh đô, người ta băm nhỏ tôm và thịt heo, quết chúng lại thì thành ra nó, Sang ăn nhiều lần rồi, lần nào ăn vào cũng thấy say đắm, anh yêu hương vị của món nem, càng yêu loại nước chấm ăn cùng nó, có thêm rượu nữa thì không còn gì bằng. Sang nôn nóng bước nhanh đến quán.
“Đồ vô luân! Bọn mi học ai cái thói cuồng ngôn* như rứa? Ta thiếu hôm ni* thì mai ta trả, chứ mi nhìn ta ra phường ăn chực là ra răng*?”
*Cuồng ngôn: ăn nói quàng xiên
*Ni: nay
*Răng: sao
Có một người đàn ông từ chỗ ấy xộc ra, va vào Sang, anh vội vàng nhấc mũ xin lỗi.
“Mi là thằng ở mô? Đi loạng quạng không thèm nhìn đường à?”
Người đó mắng Sang sa sả, cố ý lấy cái giọng Huế nặng trình trịch đó xoáy vào màng nhĩ anh, muốn anh phải khó chịu, nhưng sao anh thấy cứ buồn cười, người đó mắng anh nhưng không nhìn thẳng anh, mặt mày đỏ gay, bốc lửa phừng phừng, như sắp bị thiêu cháy đến nơi rồi. Sang tiến lại gần anh ta, muốn nhìn anh ta rõ hơn một chút, anh có cảm giác hình như là mình đã thấy người này ở đâu đó rồi, một người có đôi mắt rất buồn.
“Răng mà mi nhìn ta như rứa? Mi muốn mần cái chi rứa? Mi…”
“Dạ, Phụng Hoá Công thứ lỗi vì tôi ngu muội.” Sang nhấc mũ ra, lịch thiệp cúi mình trước vị Hoàng thân nước Nam, xét theo vai vế thì là chú họ của Hoàng đế đương nhiệm, anh đã từng xem hình trong văn phòng làm việc của ba.
“Dạ tôi không dám nghĩ là mình có vinh dự gặp Phụng Hoá Công ở chỗ bọn dân đen tụi tôi nên mới vô ý mạo phạm đó thôi.”
Anh thốt ra câu học từ tuồng tích kia xong, mặt Phụng Hoá Công cứng đờ, từ giận vô cớ sang thẹn, rồi sắp sửa thành giận có cớ, mặt đã đỏ còn đỏ thêm. Sang khịt mũi, hai tay dâng chai rượu ngon cho kẻ bề trên, tựa như đang dâng lên tấm lòng thành của mình:
“Con dân tôi xin dâng Phụng Hoá Công chai rượu quý để thay lời tạ tội, hình như ngài đang cần nó.” Sang cố thử nhấn nhá đúng như mấy ông đóng tuồng thường làm.
Có lẽ vì đang choáng hơi men, Bửu Đảo lảo đảo mấy bước ra đằng sau, song cũng mau lấy lại thăng bằng, giật lấy chai rượu trên tay Sang, bỏ đi. Sang nhún vai, tiếp tục lên đường tìm hàng nem lụi.
Quán ăn ven đường nhỏ và đơn sơ, để một cái bàn dài, ở trên bày rượu và đủ loại thức nhắm đã làm sẵn, chung quanh có dăm ba cái ghế thấp, nếu cần sự riêng tư thì bà chủ đã để thêm mấy cái bàn con và mấy cây đèn dầu, bếp lửa để sát bàn, than hồng đang bùng cháy, thơm phức mùi nem lụi vẫn còn sót lại.
“Dạ xin lỗi cậu, chừ hết nem lụi rồi.”
Chủ quán nhìn Sang với vẻ mặt ái ngại, nem lụi vừa hết tức thì, ngay lúc Phụng Hoá Công chặn đường anh thì có người mua những chiếc nem cuối cùng. Sang chỉ biết cười trừ, vừa nãy anh hụt chuyến tàu, giờ thì anh hụt luôn mấy chiếc nem cuối.
“Dạ chừ còn rượu với tré thôi, cậu dùng tạm được không?”
“Dạ được mà.”
“Rứa cậu ngồi chờ chút, tui đi nướng tré rồi đem ra cho cậu liền.” Cô chủ quán nhỏ con, tay chân nhanh nhẹn nhắc ghế mời khách ngồi, trước khi đi còn cố chùi mặt ghế để tỏ lòng hiếu khách, khiến Sang vô cùng ấm lòng.
Sang đi ra chỗ bàn con ngồi chờ. Rượu được đưa ra trước để khách đi đêm uống cho ấm người, rượu của giới bình dân được ủ từ gạo, đơn sơ, mộc mạc, lấy cay và đắng làm chủ vị, hai vị ấy đẩy mọi giác quan đến đỉnh điểm, làm bùng nổ, đưa người đến đỉnh thăng hoa. Sang chép miệng, chờ đĩa tré mặn mòi trong bếp.
“Dạ cậu chờ lâu…”
“Nè, cho mi!”
Một đĩa nem lụi được dằn xuống chiếc bàn con, mấy chiếc nem nảy lên, có chiếc bị tróc một miếng than đen thui, nhưng chiếc nào cũng đều tăm tắp, ắt hẳn đã được tạo ra từ bàn tay lão luyện và qua sự khảo sát của biết bao nhiêu cặp mắt khắt khe, có điều, ngó chừng như đĩa nem này bị để nguội rồi đem đi nướng lại nên không ngon như trước nữa. À mà Sang vẫn chưa hiểu trời thẩy đĩa nem này xuống đây với mục đích gì.
Phụng Hoá Công kéo ngồi đối diện Sang, cầm đũa của anh chĩa chĩa vào đĩa.
“Người ta bảo “ông mất chân giò, bà thò chai rượu”, chừ ta lấy rượu của mi nên ta cho mi nem lụi. Ăn đi, của vua cho ta nớ, chừ ta cho mi, ta với mi huề* nhau.”
*Huề: hoà
“À.” Sang thở ra một hơi, hoá ra là như vậy, lòng anh nhẹ bớt rồi. “Dạ, cảm ơn ông.”
“Ăn đi.”
Sang cầm đũa lên, ăn thử món nem từ trong cung gửi ra xem thế nào. Tuy nó đã nguội, phải hâm lại lần hai, nhưng vẫn rất ngon, đúng là đồ cho vua.
Phụng Hoá Công ngồi ở ghế đối diện trông anh ăn thì cười, sau đó liếc qua chai rượu, bị Sang bắt gặp thì lảng tránh ánh mắt đi chỗ khác, rồi lại len lén tăm tia chai rượu vẫn chưa vơi đi bao nhiêu. Sang thấy mồ hôi trên trán anh ta nhỏ từng giọt, hơi thở nặng nề, chắc mới vội chạy về nhà lấy đồ ăn đem đến đây ngay để “trả nợ”.
“Nếu ông không chê thì ta cùng nhâm nhi mấy chén.” Sang vẫy tay gọi chủ quán mang thêm một đôi đũa nữa, anh trân trọng đưa sang cho Phụng Hoá Công. “Mời ông.”
Bửu Đảo hất mặt đi không thèm nhận, nhưng Sang vẫn kiên trì mời, cuối cùng cũng mời được vị Hoàng thân quý báu này vào bàn tiệc. Tự tay anh rót rượu, sẻ một nửa đĩa tré cho anh ta. Bửu Đảo chỉ uống rượu và gắp tré, không chạm đũa vào đĩa nem lụi kia dù chỉ một lần.
“Ông không thích nem lụi à?” Sang hỏi Phụng Hoá Công.
Bửu Đảo không trả lời ngay mà cười nhạt, hỏi lại anh: “Mi thấy ngon không?”
“Dạ ngon chớ, đồ của vua cho mà.”
“Mi đang ăn đồ dư đồ bỏ của thằng con quan Toàn quyền nớ.” Phụng Hoá Công lại nhếch mép một cái.
“Hở? Đồ bỏ của ai?” Tự dưng Sang có dự cảm không lành.
“Ha, ba ngày ni Hoàng thượng cho phát giấy mời ông con nuôi của quan Toàn quyền nhưng nỏ thấy hắn ở nhà.” Bửu Đảo bật cười sằng sặc, chộp lấy chai rượu tu tì tì, thở ra một hơi sảng khoái. “Hắn không có ở nhà cho vua mời mà tối mô cũng ra sông Hương chơi với bạn, rứa là vua ăn cơm không vô, mới đem cơm nớ cho ta, rồi ta cho mi nớ.”
“Ủa thiệt hở?”
“Thiệt chứ ra răng, chừ cả triều đình biết ráo rồi, mai ni gởi giấy lần nữa là tới chúng dân biết nớ.”
Sang mà không kiềm được là đã nhảy dựng khỏi ghế, hoá ra ba ngày qua anh cố làm tròn đạo với ông ba bên Tây thì suýt nữa lỡ đạo làm con dân với vua nước mình, trốn đi trong tình huống này chưa được tiếng khiêm nhường mà đã làm cho Hoàng đế nước Nam mất mặt. Sang nghĩ, có lẽ lát nữa anh nên gửi lời đến chỗ cậu Kiều, nhờ cậu Kiều nhận lời giúp, hoặc là nhờ bên toà Khâm sứ liên lạc giúp, hoặc là…
“Nè.” Tự dưng Bửu Đảo kề sát mặt anh, giọng lè nhè. “Nè cái thằng chân đất Nam Kỳ.”
Mùi rượu nồng nặc phả vào mặt khiến Sang khó chịu, anh nhích ghế ra đằng sau một chút, nụ cười thoáng biến mất rồi quay trở lại, thế mà không qua được đôi mắt mờ căm vì hơi men của người đối diện.
“Thằng chân đất Nam Kỳ.” Bửu Đảo thấy người lùi ra thì mình càng lấn tới, mặt đỏ ửng vì rượu, đỏ lan tận ra hai bọng mắt. “Mi khinh ta lắm, đúng không?”
Sang không đáp lời, nụ cười hoàn toàn biến mất.
“Hớ, rứa mà năm nớ cha ta còn tại thế, bọn mi có dám mần hỗn như ri* không?”
*Như ri: như vầy
Bửu Đảo đập bàn rầm rầm, nhưng lời thì nghẹn vào trong, chẳng hiểu có gì chặn miệng anh ta, hoặc là, Sang còn nghĩ anh ta không dám nói to, không thể nói to.
“Còn bọn mi.” Bửu Đảo đập bàn, chồm người tới. “Không có người Tây ở sau lưng thì bọn mi có đường mần hỗn như ri không? Cho nên ta cũng khinh mi, biết chưa?”
Sang mỉm cười, gật đầu. Anh nhẹ nhàng gỡ chai rượu thuỷ tinh ra khỏi tay Phụng Hoá Công, rót đầy hai chén rượu, rồi nhấc một chén lên, cung kính dâng “bề trên” bằng hai tay, thật lễ độ mà nói:
“Ông lớn dạy phải ạ, có qua có lại hết mà.”
Bửu Đảo gượng cười đón lấy chén rượu mà bảo:
“Miệng mi bén dữ, rứa mà ta nghe dân Nam Kỳ lục tỉnh chân chất thật thà nớ.”
“Thưa ông, người ta thường nhìn số đông mà nói thôi.” Sang uống cạn chén rượu của mình, rồi anh chống cằm nhìn sang, những ngón tay gõ trên mặt bàn gỗ. “Như ở quê tôi thì người ta nói ai có chức có tước thì biết phun châu nhả ngọc.”
Bửu Đảo sững người, rồi phá ra mà cười, trong cái cười kia, Sang nghe có tiếng tức tưởi, màn nước mỏng ẩn hiện sâu trong đôi mắt buồn ấy. Người cười một tiếng rồi lại nấc một tiếng, theo nhịp lên bổng xuống trầm của cuộc đời này, nay sang giàu, mai chưa biết chừng sẽ thất thế.
Chẳng mấy chốc mà Bửu Đảo đã say mềm, gục xuống chiếc bàn con, đôi dòng nước mắt cuối cùng cũng lăn trên má người. Sang chần chừ một lúc, rốt cuộc cũng rút khăn tay lau nước mắt cho anh ta. Anh kêu chủ quán lại để trả tiền rồi nhờ cô chủ gọi giùm hai chiếc xe kéo, một chiếc xin nhờ đưa vị Hoàng thân kia về nhà anh ta, chiếc xe còn lại là để cho anh.
“Cậu đi đâu ạ?” Người lái xe hỏi.
Sang ngẩn ngơ nhìn trời:
“Tới nhà quan Binh bộ Thượng thơ.”
“Dạ.”
Xe chầm chậm lăn bánh, vỏ bánh xe cạ mặt đường kêu lạch cạch, người phu xe hô một rồi hai, hít thở phì phò, chẳng mấy chốc mà lưng áo ướt đẫm. Sang tự hỏi, khi nào người kéo xe sẽ được ngồi chỗ anh đang ngồi, và khi nào anh sẽ lưu lạc đến cảnh ngộ này.
Khó mà biết được ý trời.
Trời hôm nay hơi nóng, có mấy người vác chõng ra ngoài sân quạt phe phẩy xua cái nực đi. Trời thương người chịu cảnh nóng nên thả xuống mấy hạt mưa, rồi vui tính bông đùa, từ thả mưa thành trút nước. Hạt mưa rớt lộp độp xuống đường, hạt mưa ác ý tát vào mặt người, xe kéo này có mái che nên Sang chưa sao, còn vành nón tơi của người phu xe bị mưa thiếu điều xé toạc. Sang vội vịn vai phu xe:
“Dạ chú ơi, ngừng xe ở đây được rồi.” Anh sợ phu xe không nghe nên hét lên. “Dạ ngừng ở đây được rồi! Con thấy nhà đó rồi, con tự vô đó được!”
“Dạ cậu cứ để tôi kéo, tôi nỏ răng mô*. Lạy cậu đừng trừ tiền tôi tội nghiệp.”
*Nỏ răng mô: không sao đâu
Đôi vai người phu xe run rẩy, đôi môi khô khốc tím tái lẩy bẩy, phần vì mưa lạnh, phần vì sợ mất tiền. Sang mở cặp lấy một đồng dúi vào tay người phu xe rồi nhảy ra khỏi ghế ngồi, chạy vọt đi. Phu xe hốt hoảng gọi với:
“Cậu chi ơi! Ướt đồ hết bây chừ! Để tôi chở cho!”
“Dạ thôi, con có dù rồi!”
Thực ra Sang nói láo đó, anh không có đem dù theo, ỷ nhà quan Thượng thơ đang lấp ló sau màn mưa, phóng cỡ chục bước chân là tới nên anh cởi áo khoác trùm lên đầu, nhưng mà anh không ngờ trời già ghét kẻ bốc phét dữ lắm, càng dốc nước xuống ghê gớm hơn nữa, doạ cho anh co rúm dưới tán đại thụ.
Nhà ông Thượng thơ ở đằng kia, cách đây cỡ chục bước chân thôi, nhưng màn mưa xoá mờ tầm mắt, tưởng như nó ghét bỏ anh nên tự mọc chân chạy xa mấy chục thước. Mưa lớn thế này, thì giờ lại khuya nữa, anh còn là khách tới không hẹn trước nữa, nếu giờ anh qua gõ cửa thì cũng không ai nghe mà chạy ra mở đâu.
Nhưng mà cái đầu anh nghĩ thế thôi, chứ nó không thắng được sự ương bướng, đã đến đây rồi thì anh phải vào cho bằng được, dầm mưa tới cảm cũng chịu. Anh bặm môi, hít thật sâu để lấy can đảm rồi lao nhanh qua, tựa như quả pháo đại bác lăm lăm phá sập tường thành.
Chợt, cửa lớn hé mở, một tà áo dài thấp thoáng, một tán dù chếch lên che chắn mái đầu đã ướt sũng nước.
“Anh mần cái chi mà ghê rứa?”
Tĩnh hốt hoảng khi thấy dáng bạn hiền sừng sững trước cổng nhà, tưởng người ta đã lên xe lửa ra thăm ba rồi cơ mà.
“Mưa gió như ri mà dù anh đâu?”
“Dù… quên… rồi…” Sang nói chữ được chữ mất. “Cho… vô… với… lạnh…”
Cả người anh ướt sũng nước mưa, tay chân run bần bật vì lạnh, thế mà cái miệng kia lại ngoác ra cười.
“Anh cười cái chi?”
Tĩnh nóng ruột vì thương, chẳng kìm được nên nặng lời mắng mỏ, thế mà cái mặt kia cứ cười ngờ nghệch như thằng Tễu múa rối nước. Cậu hết đường, chỉ còn nước dắt vô nhà trong.
Cha mắng thì cậu đành chịu vậy.