Sóng điện thoại chỉ phủ sóng trên đất liền, hiện tại vùng biển Việt Nam chỉ có vài nơi là phủ sóng nhà mạng Viettel.
Tuy nhiên với thiết bị liên lạc trên biển cũng những các dịch vụ điện thoại tàu – bờ thì hiện tại ngư dân có thể kết nối với điện thoại bàn, điện thoại di động ở nhà, thuận lợi cho việc liên lạc với người thân cũng như cập nhật tình hình thời tiết.
Sau khi kết thúc buổi tối đánh bắt, ông Phụng đang liên lạc với các thuyền khác để hỏi thăm tình hình đêm qua, trò chuyện khoảng mười lăm phút thì ông nhận được cuộc gọi của bà Loan.
“Tôi nghe đây, có chuyện gì mà bà gọi tôi sớm vậy?”
Bà Loan vội vàng kể chuyện Gia Hân thức tỉnh thiên phú tiên tri cũng như giấc mơ của cô bé, bà Loan hỏi:
“Ông có thu xếp về sớm được không? Tôi lo cho thằng Phong quá…”
Ông Phụng suy nghĩ một chút rồi nói:
“Mười mấy ngày nay chẳng có con mực nào, đêm qua mới bắt đầu có lại, nếu bây giờ về thì tội anh em quá nhưng vấn đề là mai mốt có bão nên có hơi nguy hiểm… Bà chắc chắn thiên phú của con Hân là tiên tri chứ?”
Bà Loan mím môi, bà cũng biết sắp có bão, thuyền chạy trong giông bão sẽ rất nguy hiểm, ông Phụng thì không sao nhưng những thuyền viên khác đều là người bình thường chỉ sợ có bề gì thì sẽ khó ăn khó nói với gia đình thuyền viên. Bà nói:
“Tôi không dám chắc nhưng con bé nói thằng Phong đang gặp nguy hiểm, tôi tin lời con bé.”
Ông Phụng cũng tin tưởng con gái mình, ông an ủi bà Loan:
“Bà cũng đừng lo lắng quá, ông nội thằng Phong đã yểm lên người nó bảy tấm thuẫn bài, nhờ bảy thuẫn bài này mà nó còn sống đến giờ…”
Bà Loan vội vàng ngắt lời ông Phụng:
“Không phải vẫn có một con quỷ phá được mấy tấm thuẫn đó đấy sao? Lần đó nếu không có con Thuỳ thì thằng Phong đã chết rồi. Bùa chú ông nội để lại cũng chỉ bảo vệ nó phần nào thôi, quan trọng là người còn sống chúng ta. Ông nội nói thằng Phong có “quý nhân phù trợ” nhưng giờ bên cạnh nó còn có ai đâu?”
Ông Phụng biết lần Cao Phong bị giết khiến bà Loan trở nên lúc nào cũng lo lắng cho sự an nguy của Cao Phong, ông không phải không lo chẳng qua ông cứng rắn hơn bà Loan một chút. Ông hạ giọng xuống:
“Bà quên có một người luôn bên cạnh nó hay sao? Người này sẽ không bao giờ bỏ rơi nó…”
Bà Loan giật mình nói vội:
“Ý ông nói là hắn ta? Ông điên rồi hay sao hả? Quý nhân cái gì chứ? Hung tinh thì có! Nếu không vì hắn ta thì thằng bé đã không ốm yếu nhiều bệnh tật như bây giờ rồi…”
Ông Phụng phì cười, trước đây ông cũng từng nói với ông Phúc những lời như của bà Loan, khi đó ông Phúc nói rằng “hắn ta” là quý nhân của Cao Phong. Ông nói:
“Hung tinh cũng có thể là quý nhân, đây là lời ông nội thằng Phong nói, không phải tôi. Hơn nữa nữa thằng bé đã cũng đã lớn rồi, có một số việc nó phải tự mình đối mặt, bà còn định nuông chiều nó đến bao giờ nữa? Bà luôn nghĩ thằng bé yếu ớt như lúc nhỏ? Người sở hữu “Thiên Ân” thì không bao giờ yếu đâu. Được rồi, bà đừng quá lo lắng quá, tôi sẽ gọi cho thằng Quang.”
Nguyễn Minh Quang là con của chị gái thứ sáu của ông Phụng, tuy hơi quậy phá nhưng là một thầy trừ tà hứa hẹn. Minh Quang hiện tại đang tập huấn tại Nga, bà Loan khá tin tưởng vào năng lực trừ tà của anh chàng này nên vội nói:
“Vậy thì ông gọi cho thằng Quang đi, có gì thì nhắn lại cho tôi biết.”
Ông Phụng tắt máy rồi gọi cho Minh Quang, đầu dây bên kia vang lên một giọng khá trẻ:
“A lô bác bảy, sao bác biết cháu đem theo điện thoại mà gọi?”
Quả nhiên là gọi được, ông Phụng mỉm cười:
“Dám đem điện thoại trong đợt huấn luyện thì chỉ có cháu thôi. Bác có một chuyện muốn nhờ cháu giúp…”
Giọng của Minh Quang có vẻ hơi run, thời tiết bên Nga chắc đang rất lạnh:
“Lại là chuyện thằng Phong à? Dòng họ nhà mình mỗi khi có chuyện cũng là chuyện của nó, lần này lại là chuyện gì nữa đây bác bảy?”
Minh Quang cũng hai ba lần suýt mất mạng vì bảo vệ Cao Phong nhưng Minh Quang hay người trong dòng họ Nguyễn đều không ai oán trách câu nào, bởi vì Cao Phong đang mang trên người lời nguyền của cả dòng dọ. Ông Phụng thản nhiên nói:
“Cũng không có gì lớn lắm, con Hân bảo thằng Phong sắp gặp nguy hiểm, con lấy lí do gì cũng được, nhanh chóng về bảo vệ nó. Nếu bị phát hiện, mọi chuyện cứ để bác lo.”
“Ái chà chà, bác bảy cứ làm khó con. Nhưng mà con thích đấy, chậm nhất là ngày mốt con sẽ có mặt ở Việt Nam.”
Giọng Minh Quang hồ hởi, chỉ cần có câu mọi chuyện cứ để bác lo là đủ để anh ta phấn khởi rồi. Ông Phụng thở dài:
“Thằng Phong nhờ cả vào con.”
“Bác bảy cứ yên tâm.”
Nghe giọng ông Phụng thì Minh Quang biết chuyện này rất nghiêm trọng, không phải chuyện đùa.
***
Ông Phụng quay trở lại trò chuyện với các thuyền khác qua bộ đàm, hôm nay không thấy thuyền Thịnh Phát nói gì nên ông gọi thử:
“Tám bảy! Tám bảy! Nghe gì không tám bảy?”
Khi đi đánh bắt các thuyền thường đi theo nhóm nhỏ, một nhóm khoảng chín, mười thuyền, khi vùng biển nào có nhiều cá mực thì sẽ gọi các thuyền khác trong nhóm đến. Liên lạc qua bộ đàm thì thường gọi hai số cuối của số hiệu thuyền hoặc tên thuyền trưởng.
“Tám bảy đây, anh em cho hỏi giờ nước mình ngoài biển vẫn còn sử dụng thuyền buồm à? Gần chỗ tôi có cái thuyền buồm bự chà bá luôn nè! Nhưng mà sao nó đen thui hà!”
Thuyền buồm? Còn màu đen? Ông Phụng cảm giác có điều không lành bèn nói:
“Tám bảy! Nhổ neo chạy khỏi đó mau lên! Nghe tôi nói gì không tám bảy? Chạy mau lên! Thuyền buồm đen thì chỉ có thể là tàu ma thôi!”
“Tàu ma cái gì cha nội? Giờ đang giữa trưa ma cỏ đâu ra? Mà nó đang chạy lại gần chỗ tôi, thằng mất dạy này không thấy thuyền người ta đang neo à? Nó muốn húc thẳng vào thuyền tôi luôn này anh em!”
Một giọng nói khác vang lên, giọng người này có hơi bực tức:
“Múc nó luôn! Thuyền ông máy lớn mà sợ gì? Không lẽ ông thua nó?”
Một thuyền trưởng khác có có giọng nói nhẹ nhàng vang lên:
“Coi chừng tàu Trung Quốc đấy, đợt trước tôi cũng bị nó dí xịt vòi rồng, may mà tôi nhanh trí áp sát nó không là làm mồi cho cá ăn rồi!”
Mấy con người này, lúc này đâu phải lúc để đùa giỡn, ông Phụng định nói thì bên kia vang lên tiếng la hét:
“Xương! Trên tàu toàn xương! Trên tàu toàn xương!… bíp… bíp… xương… có ma…”
“Ma… bíp… bíp… tàu ma! Nó là tàu ma! Anh em mau chạy… bíp… bíp…”
“Rít… Rít…”
Một chuỗi âm thanh chói tai vang lên, những người khác trong nhóm nhốn nháo cả lên, có lẽ ai cũng tái mắt hết cả rồi. Khoang dưới thuyền ông Phụng cũng bắt đầu ồn ào. Các thuyền viên đều đang đang gọi:
“Bác bảy! Bác bảy!”
Ông Phụng là con trai thứ bảy trong nhà nên mọi người trên thuyền đều gọi ông là bác bảy. Ông ló đầu ra khỏi mui lái, hỏi:
“Có chuyện gì đấy?”
Một thuyền viên chỉ về phía trước:
“Phía trước… có một chiếc tàu lạ lắm, bác bảy nhìn mà xem… nó có buồm còn đen thui nữa…”
“Tới nhanh hơn mình nghĩ!” Ông Phụng không hề hốt hoảng hay vội vàng, ông cầm bộ đàm lên nói to:
“Tất cả nghe đây! Tám bảy tiêu rồi, mọi người mau nhổ neo chạy hướng về đất liền ngay lập tức, nếu không kết cục sẽ giống như tám bảy. Tàu ma đến chỗ tôi rồi, tôi phải đi xử lý nó đây!”
Nói xong ông bước ra khỏi mui lái, trời đang trong xanh đột nhiên mây đen từ đâu kéo đến đầy trời, những ngư dân có kinh nghiệm đều nhận ra trời sắp nổi cơn giông còn trong mắt ông Phụng thì biết ma quỷ sắp kéo đến, hơn nữa ma quỷ lần này không đơn giản.
Từ xa xuất hiện một chiếc thuyền lớn, mũi thuyền chạm khắc đầu rồng tinh xảo, dài ít nhất cũng năm mươi mét, bề ngang khoảng mười mét, trên thuyền có hàng chục cột buồm lớn nhưng rách tả tơi. Ông Phụng có chút kiến thức lịch sử, theo ông đoán đây là thuyền chiến thời nhà Nguyên hoặc nhà Minh, nhưng kỳ lạ là cả thuyền và buồm đều có một màu đen tuyền hơn nữa dường như nó lúc ẩn lúc hiện, tựa như một màn sương đen trên mặt biển.
Chiến thuyền đang lao rất nhanh về phía thuyền ông Phụng, mọi người trên thuyền nháo nhào cả lên, trừ hai người, ông Phụng và Phan Trọng Duy. Trọng Duy ở gần nhà ông Phụng, từ nhỏ đã chứng kiến trận tấn công của Bạch Cốt Phu Nhân nên mấy chuyện ma quỷ này không doạ anh được, hơn nữa chỉ cần có ông Phụng ở đây không có việc gì phải sợ cả.
Trọng Duy tò mò hỏi:
“Bác bảy, lại là tàu ma à? Lẽ nào nó có liên quan đến việc tàu thuyền mấy năm nay thường xuyên mất tích?”
Ông Phụng gật đầu:
“Đúng vậy, mấy năm nay tàu ma liên tục xuất hiện nhưng có lẽ phía sau vẫn còn kẻ chủ mưu. Linh cảm của bác cho biết hôm nay chúng ta sẽ bắt được một mẻ cá lớn.”
Mọi người lúc này đang cuống cuồng kéo neo để bỏ chạy, bọn họ tuy từng gặp không ít tàu ma nhưng lần nào gặp cũng đều sợ đến bủn rủn cả tay chân, chỉ trong nháy mắt tàu ma đã ở ngay trước mặt, sóng trắng xoá bắn lên cao mấy mét, ở gần mới thấy được tàu ma này lớn thế nào, thuyền của ông Phụng dài hai mươi mét nhưng cũng chỉ như một đứa trẻ trước tàu ma.
Ở gần nên mọi người trên thuyền ông Phụng cũng nhìn thấy trên tàu ma toàn là xương, có những bộ xương chất thành đống lại có những bộ xương khác lại như người sống biết cử động, đang cầm vũ khí chuẩn bị tấn công. Cảnh tượng này khiến những người lớn tuổi nhất trên thuyền cũng phải sợ hãi.
Ông Phụng thản nhiên nói:
“Mấy đứa này đã bảo gặp tàu ma thì không cần kéo neo, mau vào trong tránh…”
Ông Phụng vừa dứt lời va chạm đã xảy ra, nhưng vừa va chạm thì thuyền chiến liền biến thành một làn khói, biến mất trong sự ngỡ ngàng của mọi người.
“Vậy là xong rồi hả?”
“Chưa đâu, bây giờ mới là bắt đầu.”
Ông Phụng bước ra mũi thuyền, mặt biển đang yên ả đột nhiên trào lên vô số cơn sóng trắng xoá, thuyền lắc lư dữ dội, thuyền viên trên tàu đều là những ngư dân có kinh nghiệm nhưng vẫn bị hất văng ngã ra sàn thuyền.
Cách thuyền ông Phụng khoảng một trăm mét nhô lên một hòn đảo, hòn đảo lại nhô lên thành một người khổng lồ, người khổng lồ này cao đến mức chạm vào cả mây đen trên cao. Toàn thân đen tuyền, đầu trọc lóc, trước trán có hai sừng dài, khuôn mặt chỉ có mắt miệng hơn nữa mắt miệng còn toả ra ánh sáng xanh lè như ba đốm ma trơi.
Là ác quỷ, hơn nữa còn là quỷ tướng, có lẽ cũng sống mấy ngàn năm, quỷ tướng kăng gu ru mà Phương Thuỳ gặp vẫn chưa là gì con này.
Ào ào!
Mặt biển lúc này như đang trong cơn giông bão, sóng càng lúc càng lúc lớn, mặt biển trắng xoá màu bọt biển, sóng đánh vào mạn thuyền phủ lên toàn bộ con thuyền nhỏ bé và đơn côi giữa biển cả, những thuyền viên vội vàng chạy vào khoang thuyền tránh sóng, sóng dữ chưa dứt vì tai hoạ vẫn chưa chịu dừng.
Một rồi hai, ba bốn… tất cả mười sáu quỷ tướng khổng lồ khác nhô lên khỏi mặt nước, có con còn cầm đao thương kiếm kích, bộ dạng vô cùng hung ác.
Giữa các quỷ tướng xuất hiện một hòn đảo kích thước lớn không thua gì bọn chúng, hòn đảo từ từ bay lên rồi lơ lửng giữa không trung, với đôi mắt đặc biệt của ông Phụng có thể nhìn ra hòn đảo bay này được hình thành từ một vạn quỷ tốt, chỉ hòn đảo này thôi cũng tương đương một quỷ tướng, không chỉ thế trên hòn đảo còn một con quỷ kỳ lạ. Ác quỷ này kích thước không lớn, ba đầu sáu tay, toàn thân đỏ rực, từ linh lực tỏa ra của nó ông Phụng có thể ước chừng nó ở cấp đại tướng.
Một quỷ đại tướng, mười tám quỷ tướng, đây có lẽ là trận chiến khó khăn nhất từ trước đến giờ mà ông Phụng gặp phải.
“Xem ra mình phải dùng hết sức rồi!”
Ông Phụng thở dài, Trọng Duy ở bên cạnh hỏi:
“Bọn chúng là cái gì vậy bác bảy? Con chỉ nhìn thôi mà sắp nghẹt thở luôn rồi.”
“Chúng chỉ là mấy hồn ma binh lính Trung Quốc ngày xưa chết trôi ra biển, sống lâu ngày thành quỷ rồi nhiều con quỷ lại kết hợp lại thành mấy thứ khổng lồ đằng kia. Ma ăn hồn, quỷ ăn cả xác, bọn chúng cử các tàu ma đi khắp biển Đông để bắt người làm thức ăn. Mấy năm trước bác đã từng nghe nói về những con quỷ hoành hoành trên biển, cuối cùng cũng tìm được chúng.”
Ma quỷ trên bờ còn có thầy trừ tà tiêu diệt còn trên biển chẳng ai động được đến chúng, ngư dân mấy năm nay chết đã đến hàng trăm người, chính phủ cử cảnh sát biển điều tra nhưng cảnh sát biển cũng chỉ là mồi ngon cho lũ ma quỷ. Ông Phụng được nhiều người trong làng cầu cứu nên xách thuyền ra khơi, trong ba năm ông đã tiêu diệt khá nhiều tàu ma nhưng ông biết đằng sau tàu ma có kẻ giật dây, muốn chấm dứt nỗi khổ của ngư dân thì phải tiêu diệt kẻ cầm đầu. Nhưng bôn ba khắp biển Đông rộng lớn vẫn không tìm được, không ngờ kẻ địch lại tự tìm tới.
Quỷ đại tướng ngồi trên hòn đảo quỷ thét lớn, giọng hắn vang rền:
“Ngươi là Địa Ngục Chi Tử? Mấy năm nay ngươi đã giết vô số con cháu đồng bào của ta, đúng là chán sống! Ta là đại nguyên soái Dương Tử của Đại Tống, hôm nay nhất định lột da lóc xương ngươi trả mối thù của đồng bào bị ngươi giết hại!”
Ông Phụng bật cười, Dương Tử đã ăn thịt nhiều ngư dân Việt Nam, hấp thụ trí tuệ và kiến thức của những người đó nên biết tiếng Việt cũng không có gì lạ. Hiện tại có thể đương đầu với nhiều quỷ tướng và đại tướng thế này thì trên thế giới cũng chỉ có khoảng mười lăm người, ông Phụng có lẽ là một trong số đó. Ông thét lớn:
“Trả thù? Dựa vào mấy kẻ bại trận chết trôi như bọn mày? Thì ra mày chọn cái chết! Bè lũ xâm lược mấy ngàn năm, đến chết vẫn chưa chịu thôi? Chắc bọn mày không biết nhà tao ba đời cắm cọc trên sông Bạch Đằng?”
Ông Phụng chậm rãi bước ra khỏi đầu thuyền, ông lúc này đang đứng trên không trung, ngọn lửa địa ngục xanh lam từ đâu bốc lên bao phủ cả người ông.
“Đại Nhiệt Địa Ngục – Vũ Sa Hoả Thương!” (1)
“À chút nữa thì quên, kẻ nào bị lửa địa ngục đốt sẽ không thể đầu thai, vĩnh viễn không siêu sinh. Cẩn thận một chút!”
Thiên phú của ông Phụng là Vay Mượn, thông thường những người có thiên phú này sẽ mượn sức mạnh của mãnh thú, thần tiên hoặc ma quỷ để trừ tà, tương tự gọi hồn của thầy đồng nhưng ông Phụng lại ở một đẳng cấp hoàn toàn khác, ông mượn sức mạnh từ Địa Ngục.
Địa ngục có mười sáu ngục lớn gồm bát nhiệt địa ngục và bát hàn địa ngục, lúc trước ông Phụng mượn sức mạnh từ địa ngục thứ hai Hắc Thằng Địa Ngục của bát nhiệt địa ngục nhưng cũng chỉ là một phần rất nhỏ, hiện tại ông đã có thể vay mượn đến một nửa của địa ngục thứ bảy, Đại Nhiệt Địa Ngục, sức mạnh của ông Phụng lúc này đã có thể sánh ngang Phương Thuỳ.
Ông Phụng ném mạnh hoả thương về phía một quỷ tướng, ngọn thương lao lút đi như xé gió, quỷ tướng cơ thể cồng kềnh không tránh kịp bị khoét một lỗ cực lớn giữa ngực, lửa địa ngục bùng lên thành một cơn lốc lửa thiêu quỷ tướng xấu số thành tro bụi, nước biển nơi quỷ tướng đó đứng cũng bị bốc hơi tạo thành một hố sâu thăm thẳm.
Dương Tử tức giận gào lớn:
“Chỉ là người trần mắt thịt mà dám chống lại quỷ thần? Mày nhất định phải chết! Tất cả! Giết hắn cho ta!”
“Mày nói ai chết?”
Ông Phụng nháy mắt đã ở trên Dương Tử, ông hạ tay xuống.
“Nhất Thiết Đại Nhiệt! Đại Thân Ác Hống Khả Uý! Hoả Kế! Vũ Sa Hoả! Nội Phí Nhiệt! Tra Tra Tra Tê! Phổ Thụ Nhất Thiết Tư Sinh Khổ Não! Tì Đa La Na Hà! Vô Gián Ám! Khổ Man! Vũ Lũ Man Đẩu Tẩu! Man Khối Ô! Bi Khổ Hống! Đại Bi! Vô Bi Ám! Mộc Chuyển Địa Ngục!” (2)
“Thập Lục Biệt Hoả Thương!” (3)
Mười sáu ngọn thương lửa khổng lồ như mười tám thiên thạch từ trên cao lao xuống.
“Ra đi mạnh giỏi!”
Chú thích:
(1) Đại Nhiệt Địa Ngục:
Đại nhiệt địa ngục hay còn gọi là Đại thiêu chích địa ngục, Đại cực nhiệt địa ngục, Đại tiêu nhiệt địa ngục, là ngục thứ bảy trong bát nhiệt địa ngục. Ở ngục này ngục tốt đem tội nhân để trong thành sắt, lửa nóng đốt thành, trong ngoài đều đỏ, đốt nướng tội nhân. Lại có hầm lửa như lò than hồng; trên hai bờ hầm còn có núi lửa, ngục tốt cầm cái xoa sắt xâu lấy tội nhân, ném vào trong lửa, da thịt nhừ nát, đau đớn cùng cực.
(2), (3) Thập lục biệt xứ địa ngục:
Có mười sáu địa ngục lớn là bát nhiệt và bát hàn, mỗi địa ngục lớn đều có mười sáu địa ngục nhỏ bao quanh, ăn thông với bốn cửa. Mười sáu địa ngục nhỏ này gọi là địa ngục quyến thuộc hoặc thập lục biệt xứ địa ngục (mười sáu địa ngục riêng biệt).
Thập lục biệt xứ địa ngục của đại nhiệt địa ngục là:
Nhất thiết đại nhiệt xứ: nơi tất cả lửa đốt.
Đại thân ác hống khả úy xứ: nơi người to lớn độc ác sợ hãi gào thét.
Hỏa kế xứ: nơi búi tóc lửa.
Vũ sa hỏa xứ: nơi mưa cát lửa.
Nội phí nhiệt xứ: nơi nóng sôi bên trong trào lên.
Tra tra tra tê xứ: nơi tội nhân bị đốt kêu tra tra tra.
Phổ thụ nhất thiết tư sinh khổ não xứ: nơi chịu tất cả khổ não của cuộc sống.
Tì đa la ni hà xứ: sông Tì đa la ni.
Vô gián ám xứ: nơi không bao giờ có ánh sáng.
Khổ miên xứ: nơi chịu các nỗi khổ triền miên.
Vũ lũ miên đẩu tẩu xứ: nơi mưa lửa liên miên.
Miên khối ô xứ.
Bi khổ hống xứ: nơi kêu gào khổ thảm.
Đại bi xứ: nơi nhiều đau thương.
Vô bi ám xứ.
Mộc chuyển địa ngục xứ.