Trót mấy ngày mà đến được phía Nam của nước Khâm Đức, bỏ bè lên bờ, xảy thấy núi cao chót vót, cây cối sum suê, hoa tươi đẹp mắt.
Họ đi vào, chuyển từ cây này qua cây kia, trèo đá vượt suối, tiếng chim văng vẳng, quanh quẩn cũng chỉ thấy toàn là cây núi mênh mông, gió rừng rào rạc.
Đi đã thấm mệt, cùng ngồi nghỉ trên một tảng đá lớn, Quân Chính đi thám thính xem có xóm nào để qua đêm, thấy xa xa có người. Thấy có vị đạo nhân, đội nón lá, đeo gùi hái thuốc.
Quân Chính chạy tới, kêu lớn:
– Vị tiên sinh gì ấy ơi.
Đạo nhân đưa mắt nhìn theo, nói:
– Các hạ từ đâu đến làm gì?
Quân Chính nói:
– Tại hạ ở Nguyên Châu đến, lặn lội xa xôi đi tìm Thiên Thư, nay lỡ đường muốn tìm xóm qua đêm. Cho hỏi gần đây có xóm người nào không?
Vị đạo nhân nghe có người đi tìmThiênThư, lòng mừng khâm phục nói:
– Cách đây khá xa về phía tây mới có xóm, hay là chỗ ở của tôi nghỉ chân, các hạ thấy thế nào?
Quân Chính vui mừng bái tạ, dẫn vị đạo nhân về chỗ Đắc Bá với cún Lùn, gặp mặt chào hỏi. Vị đạo nhân tên Huyền Vân, ngao sơn hái dược luyện đan, nhà ở trên núi gần đây.
Dọc đường cảnh sắc như chốn thần tiên, cả ba vừa đi chậm chậm vừa xem hoa.
Đến nơi, thấy động lớn đóng kín, bên phải có bia đá đề ba chữ “Huyền Thiên Động”, bên trái có thác chảy, xung quanh cây hoa xum xuê, đúng là non sông tiên cảnh.
Đắc Bá với cún Lùn thấy mấy quả mọng, hớn hở hái liền ăn cho đỡ lòng.
Huyền Vân mở động mời vào, kêu tiểu đồng trong nhà chuẩn bị trà bánh đãi khách.
Huyền Vân nói:
– Thời mạt yêu ma hoàn hành, lòng nhân băng hoại, sao các hạ lại muốn tìm Thiên Thư chứ?
Quân Chính nói:
– Tìm Thiên Thư vì muốn cứu độ mọi người, diệt trừ ma đạo, tu hành chính quả, đồng cũng trừ họa nạn của tôi và tiểu đệ. Xin hỏi ông có tin tức gì về Thiên Thư không?
Huyền Vân đáp:
– Nói thật thì tôi đây không biết, cũng không đi tìm.
Quân Chính nói:
– Chân nhân như ông pháp lực không phải tầm thường, đức độ cũng cao, sao lại không đi?
Huyền Vân đáp:
– Không phải vì sợ yêu quỷ, cũng không phải vì ngại gian nan. Vì con người rất khó cứu độ, lại sợ rằng bản thân vân du, không giữ vững mà cuốn vào vòng xoáy danh lợi tình. Nghe các cậu dám tìm Thiên Thư thì tôi rất nể phục.
Quân Chính khiêm tốn nói:
– Thật ra tại hạ có kiếp nạn nên mới dám mạo hiểm lên đường, không có gì đáng khen đâu. Xin hỏi thêm, ông biết đâu có tin tức hay lời tiên đoán về Thiên Thư không? Để dễ hướng tìm.
Huyền Vân nói rằng cách đây hơn nghìn dặm có thành Định Tâm Trấn. Nghe nói nơi ấy nhiều người tu hành, chắc hẳn sẽ có tin tức.
Chuyện trò cơm nước, ngủ nhờ tại động. Sáng sau thì dậy sớm xuất phát, trước khi đi còn được Huyền Vân tặng ba viên đan dược, nói nếu tìm được Thiên Thư thì nhớ truyền độ ông.
Hứa rồi bái biệt đi khỏi núi, rừng cây âm u vắng vẻ, đi tới tối, Đắc Bá nói:
– Trời tối rồi, chúng ta kiếm nhà tá túc.
Cún Lùn nói:
– Lùm cây phía trước có nhà, mau vào đó mà tá túc.
Phía trước có cổng tre kiên cố, hai bên có bờ đất trồng bắp, đậu nành, còn có bụi mía. Quân Chính thấy cửa đóng, tiến đến gõ cửa.
Có người bước ra mở cửa. Đó là một cô bé rất xinh đẹp, chừng mười lăm mười sáu tuổi, để tóc hai mái dài, mặt tròn, mắt long lanh như sao. Cách ăn mặc cũng rất đẹp, áo xanh lá, quần cũng xanh lá, trông rất êm dịu, tươi mới.
Cô bé nói:
– Các vị là…
Quân Chính nói:
– Chúng tôi là người tu hành, đi vân du tìm Thiên Thư, lỡ đường tối nên xin ngủ nhờ.
Cô nghe tới người tu hành thì mặt vui, gọi vào.
Cha cô trong nhà thấy có chàng thiếu niên tuấn tú, phong thái khác người, dẫn theo một cậu bé chừng mười hai mười ba tuổi với một chú cún. Nghe cuộc nói chuyện lúc nãy thì bỏ cảnh giác mà vui vẻ mời vào.
Cô bé tên Lý Ái Duyên, mẹ cô bị yêu quái yểm bệnh, sắc mặt nhợt nhạt, chân tay mồ hôi nhớt, đại phu chữa không khỏi, nghe có người tu hành đến nghĩ sẽ trị được nên xin giúp. Quân Chính nhìn qua thấy trên đỉnh đầu có khí đen, đoán rằng là nghiệp bệnh.
Kêu mọi người lui ra, hai tay để ấn chú, miệng lẩm nhẩm rồi chỉ về phía đầu, hô:
– Hoắc Khứ Bệnh!
Thổi phù một cái, các cục khí đen như bị gió cuốn, thần sắc tươi hẳn.
Lý thẩm ngồi bật dậy vui sướng, rưng rưng nước mắt, cảm tạ Quân Chính rồi ôm Lý bá, Ái Duyên cùng thương khóc.
Lý thẩm nói:
– Thiệt không biết phải báo đáp sao cho các vị?
Đắc Bá nói:
– Cho chúng cháu ở qua đêm là được ạ.
Kể rằng gia đình Lý này còn có một đứa gái út nữa. Lúc trước làng Khởi Phát này rất vui vẻ, không ảm đạm như bây giờ. Mấy nay yêu quái mới lộng hành, ăn gia súc, phá ruộng vườn, còn bắt cóc mấy đứa trẻ, trong đó có cô con út. Bắt người dân lập miếu thờ.
Lũ yêu này có ba con. Hai con cóc tinh da xanh lè, cao hơn tám thước, bụng phệ, môi dày. Còn con nữa là Điệt tinh (đĩa) cao to hơn, đầu to hơn đuôi, trước trán có đề chữ thư pháp Hạ – Thượng, da nâu sẫm, miệng như miệng người, chém thì phân tách thành nhiều con nhỏ khác.
Biết mai ngày rằm, vào giờ Thìn có bày mâm cúng chúng nó, Quân Chính bày trận sẵn để dễ bắt.
Cơm nước xong xuôi, Lý thẩm chặt mấy khúc mía, nấu chè bắp và sữa đậu nành thiết đãi. Thấy chè bắp ăn lạ miệng, sữa đậu uống thấy thơm béo, thích thú ăn uống gần hết.
Ái Duyên cười nói:
– Không ngờ tiên sinh cũng thích ăn chè, uống sữa đậu.
Nhìn sang Đắc Bá đang ăn mía nuốt ừng ực, nói:
– Đệ ăn mía làm ta nhớ đến tiểu muội, nhưng cách ăn của nó bạo hơn nhiều.
Đắc Bá nói:
– Muội muội của tỷ tên gì ấy?
Ái Duyên đáp:
– Lý Thủy Hiền.
Đắc Bá thầm nghĩ: coi bộ con bé không hiền như cái tên rồi. Cún Lùn không ai ngó ngàng tới, nằm gặm xương một bên.
Sáng sau trời mây âm u, nắng quang không chiếu tới, hương quả đầy ắp, thịt mắm bày biệu, ai nấy mặt mày tối tăm. Bái lạy xong xuôi, nhà ai người nấy về đóng kín cửa.
Đợi khoảng nửa canh giờ thì có khói đen vây quanh bàn cúng, hiện hình ba con quái, ăn ngấu nghiến cũng chả buồn nhả xương.
Thấy chúng hưởng lạc ăn ngon, Đắc Bá gai mắt ngứa tay, không nhịn được xông ra trước.
Lũ yêu vẫn thản nhiên ăn, Điệt tinh nói:
– Nay ngày tốt, hương quả linh đình, không rảnh ăn ngươi.
Đắc Bá nói:
– Các ngươi cứ ăn cho xong, đằng nào ngày này năm sau cũng là giỗ của các ngươi.
Thấy có đứa nhỏ khiêu khích, ăn mặc lạ thường, mụ Cóc tinh nói:
– Ngươi không phải người ở đây. Nói coi! Ngươi ở đâu? Đến đây làm gì?
Đắc Bá nói:
– Ta ở đâu thì ta ở đó, ta đến làm gì thì mắc gì đến ngươi chứ cóc ghẻ.
Nói rồi Đắc Bá rút kiếm, phát khí lực lam nhạt, dùng chiêu Tinh Diệu trảm, chém từ trên xuống làm vỡ bàn cúng, đồ ăn nhang nhói vương vãi, miếu thờ đổ nát.
Điệt tinh nổi nóng, hét:
– Thằng nhãi! Trời đánh còn tránh bữa ăn, hôm nay ta cắn nát đầu ngươi!
Đắc Bá nói:
– Giỏi thì nhào vô, đồ không có mắt!
Điệt tinh sôi máu lao tới, Đắc Bá nhẹ nhàng tránh né, nhảy đánh giỡn, miệng kêu là đồ không có mắt, chậm chạp.
Tự nhiên có hai cái lưỡi cóc đâu ra bắt vào hai chân làm cậu té nhào ra sau, không kịp phòng bị, Điệt tinh cười rồi dùng chiêu Bách Điệt Sát, miệng nhả ra vô số đĩa nhỏ khác như đàn cá quỷ mà lao tới cắn xé.
Vào khoảnh khắc ấy bóng hình Quân Chính vụt đến như tên, cắt hai lưỡi cóc, đẩy Đắc Bá ra xa, dùng chiêu Diệp Bạo Phong, khí lực xanh ngọc tỏa ra như lốc xoáy xé nát bách đĩa. Sau đó ở thế kiếm dùng chiêu:
– Bắc Đẩu Đệ Thất: Thiên Quan Phá Quân!
Lao tới như ngàn binh chĩa giáo tựa phá nát tường thành, chém lia lịa về lũ yêu khiến chúng thất kinh, giật thót người chạy. Biết chạy không kịp nên dùng chiêu thoát xác, Điệt tinh hóa bùn, Cóc tinh hóa rêu, biến ra bóng hình chạy vào rừng.
Quân Chính dặn Đắc Bá với cún Lùn trông chừng mọi, rồi phi vân đuổi theo. Đắc Bá chỉ vào cún Lùn trách:
– Sao nãy ngươi không ra cùng ta?
Cún Lùn lảng tránh, làm thinh không biết.
Thấy tiếng lặn, mọi người ra xem thử.
Đắc Bá dõng dạc nói:
– Mọi người cứ đợi đi, tí nữa đại ca cháu đem thây nó về xem cho rõ!
Nói rồi hô hoán gỡ bỏ miếu yêu. Bên trong miếu phá được mấy cái phòng, thấy có mấy đứa trẻ bị bắt cóc nằm nghiêng nằm ngất, có cô em út nhà Lý trong đó. Ai nấy ôm khóc, tới coi thì vẫn còn thở nhưng hôn mê, lay hoài không tỉnh.
Đắc Bá sực nhớ. Năm xưa khi ghé chơi Cửu Diệu Sơn. Trong số ấy có núi Hoa Quả, ở đó có động Thiên Cung Thần Thủ La Hầu Tinh, có vị đồ đệ tên Tôn Ngũ Linh, hai anh em học lõm từ hắn chiêu Bổng Hát. Khi có người bị hôn mê bất tỉnh thì hắn lấy cây thiết bảng gõ nhẹ lên đầu thì liền tỉnh.
Nói rồi Đắc Bá lấy cái vỏ kiếm gõ nhẹ lên đầu mỗi người, miệng niệm Bổng Hát! Giây sau từ từ tỉnh lại lấy tay xoa đầu, mọi người hô khen mừng rỡ. Cô bé Hiền của nhà Lý cũng trạc tuổi Đắc Bá, mới mở nửa mắt thấy mặt Đắc Bá trình ình trước mắt, giật mình hoảng hốt tưởng thằng điên, nhắm mắt hét lên, đạp thẳng mặt Đắc Bá văng ra khỏi miếu.
Phía này Quân Chính lên cao, nửa chừng dòm xuống, nheo con mắt giộc, kiếm không đặng, không thấy dạng thấy hình.
Lũ yêu phía dưới co rúm
Điệt tinh nói:
– Thứ đó mà chém thì khỏi mọc lại! Hay vầy đi, một đứa dụ nó, còn lại đi cho kịp về động rồi độn thổ về thôn trốn trong chùa, kiểu gì nó cũng không đám động.
Lão cóc hỏi:
– Thế ai đi giờ?
Điệt tinh chỉa cái đuôi bị mất một khúc nói:
– Ngươi đấy! Ăn thì nhiều, làm thì ít!
Quân Chính ngó thấy cóc mập, lao tới. Cóc tinh lạn lách trong rừng, Quân Chính sợ chém nhầm cây, cất kiếm, hai tay hợp thập, hóa hình Chân Khí Thể – Hạ! Khắp người tỏa khí lực, lao như tên đánh đứt lìa một chân của cóc, máu chảy ròng. Cóc thất kinh, không có thời để la, bứt tốc quýnh đít chạy nhanh hơn nãy.
Đến gần cửa hang, Điệt tinh phun bùn chặn, đợi cóc vào rồi khóa động.
Quân Chính bực không giết cho rồi, dùng chiêu Phong Tiêu Thủy Hàn, chém bay cái động thành vụn, mò mẫm không thấy chúng nó đâu.
Gió vò vò, cây rào rào, nghe đâu trong thinh không có tiếng nói:
– Tiên sinh mau về thôn, kẻo yêu tinh hại dân!
Vội phi vân về, vừa lên bay được thì rớt xuống. Thầm nghĩ phải chạy về cho mau!
Bên này Đắc Bá vừa ôm mặt vừa trách mắng. Bỗng mặt đất rung lắc, lũ yêu dưới đất nhảy phổng lên.
Điệt tinh nói:
– Ăn được đứa nào thì ăn, rồi đi trốn!
Mọi người hoảng loạn bỏ chạy. Đắc Bá với cún Lùn giữ thế tương trợ nhau. Thầm nghĩ bây giờ phải nhanh chóng bảo vệ thôn dân, không có đại ca thì cả hai vẫn làm tốt mà!
Cún Lùn mặt dữ, bốn chân xuất hiện vòng khói mây.
Đắc Bá hai tay hợp thập, ngọc khuê phát quang, khắp người tỏa khí lực, sau cùng lúc giang hai tay ra có sáu cái khiên ngọc vững chắc đồng màu xanh dương cao hơn mười thước, trên mỗi cái có đề chữ “Ngọc” bằng thư pháp. Chiêu này gọi là Ngọc Hộ!