Buổi sáng đầu tiên tại Nhật:
Đồng hồ báo thức được cài sẵn trong phòng mỗi người trong tour. Nó reo hai lần vào 5 giờ 30 và 5 giờ 35.
Tôi dậy trước chị Mỹ lo vệ sinh cá nhân, thay quần áo và sắp hành lí, trong 15 phút.
Khó chịu ở chỗ, đi chung thì phải chờ. Tôi chỉ muốn chạy như bay xuống ăn pufet và ngồi nhâm nhi cafe, nghe nhạc nhưng phải đợi Mỹ. Không những 6 giờ chị chưa xong mà còn trễ nãi đến 6 giờ 15. Tôi đinh đi trước thì chị nài nỉ ở lại.
Cuối cùng tôi cũng được ăn uống và cafe dư hơn 15 phút trước khi khởi hành.
“Món ăn của Nhật rất dở”, mẹ tôi từng đến Nhật 1 lần và nói như vậy, ai cũng nói như vậy.
Nhưng tôi lại rất thích, tôi thử hầu hết tất cả các món trưng bay trên bàn pufet, kể cả các loại bánh, nước chấm, chao “thối”, tráng miệng, tôi thử mỗi thứ một chút và ăn hết sạch không chừa, vì người Nhật rất kị chuyện bỏ mứa.
Anh Cừ kể lại: “Có nhiều đoàn Việt Nam qua đây, khách sạn họ từ chối tiếp nhận nữa, vì Việt Nam ăn rất phí. Họ lấy rất nhiều đồ ăn nhưng ăn thì rất ít. Cho nên cả nhà cố gắng lấy vừa phải và ăn hết cho em.”
Song, tôi ngồi uống cafe rồi đeo tai phone nghe nhạc, ngồi chờ.
Cafe khá nhạt, vừa miệng tôi.
Điều đặc biệc, tôi đã ăn rất nhiều nhưng không có cảm giác chướng bụng, no mà nhẹ tênh.
Đồ ăn của Nhật: họ quan trọng sự an toàn và tốt cho sức khỏe là chính, ngon dở là phụ. Ăn nhiều cá, ít dầu mỡ. rau củ quả sấy khô, ít gia vị, khá nhạt.
Không ăn chung chạ, kể cả người trong gia đình. Mỗi người đều có mỗi khay ăn riêng, tránh được những bệnh về miệng.
Phụ nữ Nhật ăn rất nhiều nhưng họ không mập, cũng không ốm. Đa phần nam nữ đều có vóc dáng chuẩn, kể cả người gìa, họ quan trọng cái đẹp đi từ bên trong.
Khi quan sát, tôi thấy tất cả những nhân viên trong khách sạn hầu toàn người già: phục vụ, lễ tân, vệ sinh, buồng phòng.
Trên suốt chuyến đi cũng vậy, khi tôi mua bánh về tặng cho gia đình, người phụ nữ lớn tuổi cũng bán cho tôi.
Chắc hẳn bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy các ông già đi khuân vác, kéo xe trong khuôn viên du lịch hay làm nhân viên dọn vệ sinh.
Bạn sẽ cảm thấy e ngại và tội nghiệp họ. Nhưng không, họ không nghèo khổ. Họ thích làm việc. Có thể họ có gia thế giàu sang và con cái nương tựa, nhưng vẫn thích lao ra tìm việc hơn là vào viện dưỡng lão. Vừa có tiền mà lại khỏe mạnh.
Đấy là điều tôi thích tại đất nước này, họ rất tuyển dụng và ưu tiên cho người già.
Ở Việt Nam, khi đi xin việc tôi luôn bị đập vào mắt bởi những tấm bảng như: “Tuyển lễ tân từ 35 tuổi trở xuống.”
Sự phân biệc tuổi tác khiến đất nước ta bị nghèo nàn, họ loại bỏ đi lớp người rất lão làng và nhiều kinh nghiêm. Đấy là một thiếu sót lớn.
Đất nước Nhật hơn 40 phần trăm là người già.
Các thanh thiếu nữ mới lớn: thay vì đi kiếm trai gái như các cô cậu ở Việt Nam rồi sanh con đẻ cái rất nhiều, họ lại tự ý thức một suy nghĩ cho cuộc sống độc thân và không thích con cái.
Có những cặp vợ chồng khi đã 40 tuổi mới có đứa con đầu lòng là chuyện bình thường. Họ quan trọng sự trưởng thành, trách nhiệm dành cho con cái khi đã đủ chính chắn.
Người phụ nữ Nhật khi đã kết hôn thì chỉ ở nhà, chăm lo vào việc nhà, chăm sóc chồng con, ăn mặc kín đáo, không lòe loẹt. Lý do ấy khiến phụ nữ Nhật thích sống độc thân, lao ra tìm việc và tự do vui chơi.
Điều này dẫn đến đất nước bị “già hóa”. Người ta chuẩn đoán trong tương lai, người Nhật có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Chúng tôi lên xe buýt đến Kope để tham quan.
Suốt chuyến đi, mấy gã dẫn tour thay phiên nhau kể đủ chuyện về nước Nhật cho đến khi hành khách ngủ thiếp đi, còn mỗi tôi, vừa nghe vừa ngắm cảnh và chụp hình.
Công nhận kiến thức bao la: với giọng Đà Nẵng, mấy ổng kể vanh vách từ chuyện này đến chuyện nọ với cốt truyện đầy logic và cách truyền đạt cuốn hút.
Tôi cố hết sức tận hưởng chuyến du lịch của mình, không bỏ lỡ giây phút quý giá nào.
Xe băng băng chạy qua các xa lộ rộng mênh mông và trên rất nhiều cây cầu lớn dọc bờ biển.
Một quang cảnh khác hoàn toàn với Việt Nam: rất hiện đại nhưng luôn gìn giữ truyền thống. Mông lung và vắng vẻ như trong các mv ta vẫn thường hay xem.
Quãng đường dài từ Osaka đến Kope chỉ toàn nhà máy, không thấy người, khi nhìn kỹ lắm mới thấy họ đang làm việc bên trong, từ trên cao trông họ bé tí như những chú kiến robot chăm chỉ với thao tác làm việc chuẩn xác. Cả lúc xe chạy ngang qua một sân gold, hàng tá người đều vung gậy đúng tư thế.
Suốt chuyến đi, chúng tôi chưa hề nghe bác tài bấm còi, bên ngoài cũng vậy, họ chỉ dùng còi xe cho việc nguy cấp và lái xe cực kỳ an toàn, vững chắc. Không bao giờ có tình trạng xe này cố vượt lên xe khác, khoảng cách giữa các xe luôn cách xa nhau mà vẫn lái với tốc độ rất nhanh, theo quy định đường cao tốc. Không có tình trạng phanh gấp hay xe bị xốc do mặt đường lồi lõm.
Người Nhật lái xe bên tay phải. Xe hơi của họ rất ngộ: mui ngắn, gầm cao, không như các dạng xe xịn mui dài, gầm thấp. Một hành khác bảo: “nếu xe này mà bán ở Việt Nam thì chẳng ma nào mua.”
Người Nhật không quan trọng lắm bề ngoài đẹp xấu, có đi được là tốt, quan trọng là sản phẩm tốt.
Họ đề cao an toàn. Trên mỗi chiếc xe đều buộc phải có cơ chế tự động: xe tự động lái phòng khi tài xế ngủ gậc, tự động dừng lại khi có vật cản trước mũi cách 1 mét, điều này đã gây ra nhiều vụ chấn thương khi có người trong xe bị lao ra phía trước nếu chưa cài dây an toàn. Nhưng vì thế, Nhật Bản rất ít các vụ va chạm xe.
Mỗi khi dừng đèn đỏ, tôi hay lén nhìn mẫy gã tài xế kế bên: cho dù lái xe tải hay người làm công sở đều trông rất phong cách một cách rõ ràng, từ kiểu tóc cho đến quần áo và tất cả đều có sóng mũi to cao, mắt mí lót, nét mặt lành lạnh.
Thành phố Osaka là một thành phố công nghiệp, ít dân cư.
Nhật Bản phân khu rất rõ ràng: khu dân cư, khu công nghiệp, không được nằm lẫn lộn, vì nếu có ô nhiễm về âm thanh hay không khí, làm ảnh hưởng đến người dân thì người dân sẽ biểu tình, và khi họ biểu tình thì nhà nước sẽ phải giải quyết.
Khi xe băng qua một cây cầu trên cao, tôi thấy được toàn diện Osaka, thành phố với lượng công nghiệp khổng lồ.
Một nhà máy gỗ rất lớn phía bên dưới chúng tôi, hàng trăm cột gỗ to đùng được xếp thành hàng một cách ngay ngắn.
Khu vực đồ phế thải tái sử dụng rộng mênh mông nhưng không chút bừa bộn: được chất gọn thành nhiều cụm như khóm muối của dân ta ở ngoài biển. Ngoài ra, dọc đường đi hay các nơi khác đều quét dọn sạch sẽ, không rác rến hay vật dụng vương vãi.
Tại các nhà máy đều phải xây cột khói cao chóc ngóc, để đẩy khói hẳn lên trời không gây ô nhiễm cho người lao động.
Tuy thế, về công nghiệp Nhật chỉ đứng thứ 2 sau Mỹ và Trung Quốc.
Khi đến khu dân cư, mỗi cây cầu chúng tôi băng ngang qua đều xây lưới chắn âm thanh cao tầm 3 mét hơn, nhằm giảm tiếng ồn của xe cộ đến khu vực dân cư, dù cho nhà dân cách xa lộ cả chục mét và rất ít xe cộ qua lại.
Hệ thống giao thông ở Nhật rất chằng chịt, ngoài các tuyến đường trên mặt đất, để tránh tắt nghẽn giao thông họ xây các tuyến đường trên cầu bắt chồng chéo qua nhau và tàu điện trên không. Vì thế, xe cộ qua lại rất ít. Hầu như mỗi ngày chúng tôi di chuyển từ tỉnh này qua tỉnh nọ chỉ kéo dài vài tiếng.
Có một nguyên nhân rõ ràng hơn nữa, giao thông nước Nhật nằm chủ yếu dưới lòng đất. Tất cả các cơ sở, công ty đều yêu cầu nhân viên đi làm bằng tàu điện ngầm, ở Nhật ít bãi đỗ và cấm đậu xe hai bên đường.
Gu Nhật Bản rất đơn giản. Nhà cửa, cầu cống hai bên đường đều sơn màu trầm, nâu, đen hoặc trắng. Người Nhật không thích màu mè. Đặc biêc họ rất bảo về truyền thống, nhất là những gì xưa cổ.
Tại các khu dân cư, họ di chuyển nhiều bằng xe đạp. Hàng tá chiếc xe đạp dựng đều trên lề, không sợ bị mất cắp.
Thanh niên chạy bộ rất nhiều: họ đeo một chiếc máy đo mạch kèm ipop nghe nhạc bên bắp tay phải, mặc đồ da sát người khi chạy.
Trong các shop dọc đường, Nhật Bản bán rất nhiều món đồ cần thiết dành cho mùa lạnh:
– Đồ da mỏng sát người, không thấm nước, rất ấm, thậm chí có thể mặc đi trong tuyết.
Khi đi dọc bãi biển, tôi ngạc nhiên khi nhìn những người đang lướt ván trên nước. Trên cạn tôi còn không chịu nổi cái lạnh vậy mà họ còn lướt ván dưới nước. Bởi do họ mặc loại đồ da ấy.
– Dầu ấm thoa khắp cơ thể sẽ không còn sợ lạnh nữa.
Và nhiều món đồ hay ho mà tôi chưa biết hết.
Ngày đầu tiên, tôi chủ quan khoác mỗi cái áo mangtô, khi đêm xuống, tôi lạnh muốn xỉu, hoa mặt chóng mày. Mỗi khi gió thổi lên, tôi tưởng mình sắp chết. Rút kinh nghiệm, hôm sau tôi chỉ mặc thêm 1 chiếc áo khoác ngắn bên trong, một chiếc khăn choàng cổ màu đen bằng len mượn của chị Mỹ và đôi găng tay dầy mà mẹ cho tại Đức, thế là tôi như phục hồi hẳn. Thậm chí khí hậu có hạ xuống 0 độ, tôi vẫn cầm cự được.