Ma vương hay còn gọi là tà linh, do hận và các loại vật chất bại hoại ở tầng thấp của vũ trụ cấu thành, lợi dụng các loại linh thể ở tầng thấp và ma quỷ gây họa loạn cho chúng sinh, mục đích cuối cùng của chúng là hủy diệt tất cả.
Hơn chín triệu kiếp trước đã xảy ra cuộc đại chiến chính – tà kinh thiên động địa. Ma vương sau khi thua trận đã tách làm hai bản thể là Hắc Xà và Xích Long, dẫn theo những ma quỷ tàn dư trốn chui trốn lủi đến nhân gian. Trong mắt chúng Thần thì nhân gian là hố rác của vũ trụ, nơi đó dơ bẩn vô cùng, tà ma làm loạn, hiểm ác dị thường, khi xuống dưới đó thì phải hạ tầng, đồng nghĩa với việc mất hết thần thông và phải nhập luân hồi, từ trước đến nay chưa từng nghe thấy Thần Tiên nào sau khi đến nhân gian lại có thể quay về thiên quốc.
Vì để trải đường cho sự quay lại của Thánh Chủ sau này, đồng thời làm chậm tiến trình của quy luật hoại diệt. Ngài (Thánh Chủ) đã đặt định ra văn hóa tu luyện cho nhân loại, rất nhiều pháp môn và kinh sách tu hành đã được đưa xuống, rất nhiều vị Thần tự nguyện phát thệ cùng Thánh Chủ hạ thế độ nhân, chấp nhận trong luân hồi mà tu luyện thân tâm, chịu vô số tội khổ, đồng hóa đặc tính vũ trụ.
Nhân loại nhận được sự bảo hộ của Thần, nhân gian mở ra thời kỳ thiện ác phân tranh, vấn đạo cứu thế. Tu luyện gồm hai thể hệ chính là Phật gia và Đạo gia, ngoài ra còn có công pháp Kỳ Môn. Tầng thứ tu luyện được chia như sau:
Đầu tiên là Đan Khí: khi mới bắt đầu tu luyện, lúc đả tọa đan điền sẽ chuyển động thuận theo chiều kim đồng hồ hấp thụ linh khí của trời đất, xoay ngược chiều kim đồng hồ đào thải khí xấu ra ngoài, đạt được thân thể khỏe mạnh, khí nhiều cũng có thể xuất công năng, nhưng uy lực không đáng kể. Đan Khí chia làm năm bậc tương ứng với ngũ hành.
Tầng cao hơn là Kim Quang: lúc này công lực đã xuất hiện, công năng mạnh hơn rất nhiều, thân thể đã ở trạng thái vô bệnh và rất cứng rắn, có thể dễ dàng bóp nát cục đá, thân thể ở không gian khác phát ra ánh quang huy rực rỡ. Chia làm ba bậc Thượng, Trung, Hạ.
Tiếp theo là Đại La: công năng xuất hiện nhiều hơn, uy lực mạnh mẽ vô cùng, thân thể biến lớn thu nhỏ tùy ý, bách mạch khai thông, đan điền sản sinh ra linh thú hộ pháp. Nếu tâm tính đủ cao và duyên phận đủ nhiều thì khai mở được Pháp nhãn. Chia làm Thượng, Trung, Hạ.
Cao hơn là Anh Linh: bắt đầu ở tầng này có thể sản sinh nguyên anh ở đan điền, kêu gọi pháp thân, triển hiện pháp tướng, thọ mệnh ngang thiên địa. Chia làm Thượng, Trung, Hạ.
Cao hơn nữa là Thái Hư: lúc này sẽ xuất hiện cái gọi là “tam hoa tụ đỉnh” mỹ diệu phi thường, thân thể ở không gian khác trong suốt như pha lê, vạn mạch quy tụ, huyền quan bao bọc toàn thân, hào quang sáng ngời. Tuy thân thể đã không còn trong ngũ hành, nhưng cần tu tiếp nữa, uy lực ước chế Tam Giới. Chia làm Thượng, Trung, Hạ.
Cuối cùng là Thần Vận: đây là trạng thái tối cao của tu luyện thế gian, thân thể ra ngoài ngũ hành, không thuộc Tam Giới, công năng trở thành pháp lực thần thông, uy lực vô tỷ, ước chế tất cả không gian, lúc này còn gọi là Giác Giả. Không còn chia bậc.
Mây cuộn rồi tan, hoa nở rồi tàn, búng tay một cái đã đến thời mạt thế. Lúc này ở nhân gian được chia làm bốn vùng đất chính, mỗi vùng lại có bảo vật trấn giữ riêng. Vùng đất phía Nam có Lạc Việt Kiếm, Tây có Chén Kim Thiên, Bắc có Tháp Vương Thần, Đông có Thanh Vân Châu.
Duy chỉ có phía Đông được hình thành từ nhiều đảo lớn nhỏ tập hợp lại, nơi này chịu sự cai quản của long tộc, tuy vậy mà nhân loại được phép giao thương buôn bán, trao đổi hàng hóa.
Đáng tiếc là bấy giờ một nửa vùng đất phía Tây bị Hắc Xà chiếm giữ, trở thành đầm lầy rộng lớn. Toàn bộ vùng đất phía Bắc bị Xích Long nắm giữ, hắn điều khiển đám tay sai như con rối cai trị nơi này, đa số tu sĩ và người thường đã rời đi khắp nơi. Chỉ còn Đông và Nam là an toàn, phía Nam hiện là nước Khâm Đức, được cai quản bởi nhà Lạc.
Thuở kia ở Nguyên Châu (giữa biển lớn có mười châu là Tổ Châu, Doanh Châu, Huyền Châu, Viêm Châu, Trường Châu, Nguyên Châu, Lưu Châu, Quang Sinh Châu, Phượng Lân Châu, Tụ Quật Châu), có một dãy núi tên Thiên Cương, trong đó có động Bắc Đẩu Thất Tinh, tiên ông là Bắc Thần tên Thất Nguyên. Cách đó chừng bảy, tám dặm về hướng Nam, trên núi ấy có động Nam Đẩu Lục Tinh, tiên ông là Nam Thần tên Lục Ty.
Một ngày sương trời âm u, hai vị ấy cưỡi mây ngao du đến một thôn trang nhỏ thấy cảnh nhà cửa hoang tàn, khói lửa bốc lên. Thấy có hắc quỷ hại người nên đã ra tay diệt gọn rồi cứu người, chữa thương. Thấy trong đống rơm có hai đứa nhỏ sợ hãi trốn ở đấy.
Hỏi mới biết là hai anh em mồ côi không tên, sống chui lủi bằng nghề xin ăn, làm thuê, nay có yêu ma tới thôn sợ quá chạy trốn.
Thương cho hoàn cảnh, đồng thời cũng thấy trên người hai anh em có quang duyên với Thiên Thư nên lấy làm mừng, ngỏ ý hỏi:
– Hai đứa có muốn theo ta về học Đạo không?
Đứa lớn hỏi:
– Học Đạo thì có cứu được người không ạ?
Bắc Thần mừng thầm trả lời:
– Có, còn có thể diệt yêu, pháp lực cao cường.
Hai anh em nghe mừng quýnh lên đồng ý theo học.
Hai vị tiên ông nói:
– Để xét xem diện mạo mà đặt tên cho.
Hai anh em sụp lạy tạ ơn. Bắc Thần nói:
– Thôn này tên Hoàng Lân. Đặt cho hai ngươi họ Hoàng, chữ Hoàng có chữ nhất tượng trưng cho Đạo, có chữ bát tượng trưng cho sinh sôi, nảy nở, cũng mang hàm ý phân khai để trưởng thành, ngộ tính còn cao, tốt lắm!
Hai anh em mừng rõ cúi đầu lạy tạ và thưa:
– Mong thầy mở lượng từ bi đặt tên luôn, để dễ gọi lúc sai bảo.
Hai vị tiên ông lần lượt nhìn từ người anh đến người em nói:
– Nhà ngươi có duyên tìm được Thiên Thư nhưng gặp phải đại nạn khó thoát, thôi đặt tên theo chữ vấn đồng âm với chữ quân, tên Quân Chính. Còn ngươi nhờ ơn đức của người này mà đắc được Thiên Thư, sau truyền bá cứu độ chúng sinh, tên là Đắc Bá.
Hai anh em khoái ý cười:
– Tốt quá! Tốt quá! Nay mới biết được tên, xin chịu gọi như vậy.
Nói rồi cùng cưỡi mây về núi, Quân Chính theo Bắc Thần, Đắc Bá theo Nam Thần.
Từ ngày được tên họ, Tiên ông truyền hai anh em đem ra ngoài dạy nghi lễ, cách ăn ở, lối cư xử, giao việc quét dọn trước sau, tưới hoa nhổ cỏ, đốn củi gánh nước, làm suốt hơn ba năm trời.
Một hôm trời trong xanh, gió mát nắng dịu, nơi điện ngọc lấp lánh. Hai Tiên ông ngồi trên, dưới điện Quân Chính với Đắc Bá ngồi lẵng lặng nghe giảng.
Đắc Bá gãi đầu nhíu mày, lộ biểu cảm khó hiểu. Quân Chính nghe kinh thấm ý, trợn mắt nhướng mày, khoa tay múa chân đến nổi nhảy ra ngoài mà không biết.
Bắc Thần ngạc nhiên kêu hỏi:
– Sao ngươi vô lễ vậy? Mau vào chỗ nghe giảng.
Quân Chính thưa:
– Đệ tử nghe thầy giảng hay quá, trong lòng vui thích, nhảy múa khi nào không hay.
Nam Thần nói:
– Ngươi nghe được lời hay của kinh, vậy ngươi biết ngươi đã ở đây bao lâu rồi không?
Quân Chính thưa:
– Đệ tử chỉ nhớ gánh nước hái củi trên núi này, ăn được ba mùa đào chín.
Bắc Thần cười nói:
– Ngươi ăn được ba mùa, là ba năm rồi đó. Nay đã có trí nhớ ta muốn truyền dạy, không biết ngươi thích học môn gì?
Hai anh em thủ thỉ trao đổi một hồi rồi đồng thanh thưa:
– Thưa thầy, học gì cũng được miễn được Trường Sinh Bất Tử.
Nam Thần nói:
– Điều đó chẳng khó chi, chỉ sợ các ngươi không gia công luyện tập.
Hai anh em mừng rỡ vội sụp lạy thưa:
– Đệ tử mong ước luyện được thuật Trường Sinh Bất Tử dù khó khăn bao nhiêu cũng không từ bỏ.
Bắc Thần nói:
– Bọn ta mến người có phúc, thương kẻ thành tâm. Vả lại hai ngươi cũng là người có duyên, bọn ta sẵn lòng truyền phép Trường Sinh Bất Tử cho.
Hai anh em vui mừng lạy tạ, rồi quỳ nghe giảng dạy.
Tiên ông giảng những câu khó hiểu. Quân Chính có khiếu thông minh sẵn, ở động tiên lâu ngày nên am tường lời của Tiên ông, bèn lạy tạ lui ra nhà trước, ngồi lẩm nhẩm một mình học thuộc, Đắc Bá theo sau cũng học theo, không hiểu điều gì thì hỏi Quân Chính. Từ đó hàng ngày đến học, tập luyện mãi được bốn năm.
Một hôm khi đang gánh nước đốn củi như mọi ngày. Nghe tiếng truyền gọi vào điện giảng kinh, hai anh em đi tới quỳ nghe bảo.
Bắc Thần nói:
– Bấy lâu nay hai ngươi luyện tập như thế nào rồi?
Quân Chính thưa:
– Mấy lời thầy dạy đệ tử và sư đệ ngày đêm luyện tập không thiếu sót gì.
Bắc Thần đưa mắt nhìn rồi nói:
– Tuy là đã thông suốt nhưng hai ngươi còn tai nạn đáng lo!
Hai anh em nhìn nhau suy nghĩ một hồi. Lúc sau Quân Chính mới nói:
– Chẳng phải trong sách dạy học được phép tiên có thể sánh cùng trời đất, sống lâu muôn thuở, tinh thần đầy đủ, không bao giờ bệnh. Sao lại còn tai nạn gì nữa, mong thầy chỉ cho.
Nam Thần mỉm cười, nói:
– Đạo tiên mênh mông nhưng ai cải máy tạo hóa, thay đổi định mệnh thì quỷ thần không dung thứ. Nay hai ngươi vừa luyện được phép sống lâu, khó tránh tai họa. Ta đoán trước về sau hai ngươi sẽ bị trời đánh, nếu qua được thì bị trời đốt. Lửa ấy không phải của trời hay của hai ngươi, mà do âm khí xông lên, ngũ tạng đều cháy ra tro, rất uổng công tu luyện! Có tránh qua được thì cách lâu sau sẽ có gió thổi. Gió này kịch độc, không phải gió bốn phương, mà từ đầu thổi ngược về đất, qua lục phủ ngũ tạng, lồng vào cửu khiếu, làm thịt xương rời rã! Hai ngươi nhớ lấy, tránh ba tai họa này.
Nghe nói thế hai anh em rởn người quỳ thưa:
– Ngàn lần lạy thầy, mở lòng từ bi thương người chân thật, truyền thêm phép lạ, tránh tai nạn. Đệ tử nguyện thọ ơn thầy suốt đời.
Hai Tiên ông cảm động nói:
– Có cách tìm ra cuốn Thiên Cổ Kỳ Thư trong truyền thuyết, chỉ sợ hai ngươi thấy gian nan mà từ bỏ.
Hai anh em mừng rỡ vội sụp lạy thưa:
– Dù khó khăn bao nhiêu cũng quyết tìm được. Xin thầy nói rõ cuốn kinh thư ấy như thế nào? Tìm ở đâu?
Bắc Thần nói:
– Kinh ấy lấp lánh vàng kim, hào quang sáng ngời. Có thể xoay chuyển càn khôn, diệt sạch ma đạo, cứu khổ chúng sinh, ai chịu học thì có thể đắc chính quả trong một kiếp sống! Nhưng rất khó tìm, trong thời mạt này yêu quỷ đầy rẫy, không khéo thì mất mạng. Cuốn ấy không biết ở đâu, đi khắp bốn biển chưa chắc thấy, hai ngươi cứ tìm ở nước Khâm Đức xem sao.
Nam Thần bên trong điện ngọc mang ra hai cuốn Bắc Đẩu Kinh và Nam Đẩu Kinh đưa cho hai anh em, kêu gắng học để còn cứu được người, đối phó được yêu.
Vì đã sẵn thông phép trước, nên dễ học.
Từ đó Quân Chính và Đắc Bá ngày đêm lo luyện tập các chiêu thuật, phép thần thông, đôi lúc còn phi vân du ngoạn hết Ngũ Tinh Sơn đến Cửu Diệu Sơn, làm quen được mấy người bạn, cũng gây không ít rắc rối.