- Phân tích bài thơ Đồng chí
- Tác giả: Mèo cute
- Thể loại:
- Nguồn: Vnkings.com
- Rating: [K] Mọi độ tuổi đều đọc được
- Tình trạng: Đã hoàn thành
- Lượt xem: 607 · Số từ: 5157
- Bình luận: 0 · Bình luận Facebook:
-
Lượt thích: 2 Bùi Ngọc Đoàn Huỳnh Mỹ Tiên
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Những sáng tác của ông không nhiều nhưng phần lớn là những bài thơ mang đậm dấu ấn cá nhân với cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc, ngôn ngữ, hình ảnh chọn lọc, đặc sắc làm nên một nhà thơ với phong cách bình dị. Khi nhắc đến Chính Hữu, không ai không biết bài thơ “Đồng chí” là một trong những tiêu biểu và thành công nhất của ông. (+Yêu cầu đề bài, trích thơ)
Bài thơ được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (Thu – Đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc
Xuyên suốt bài thơ nổi bật lên giọng thơ mộc mạc nhưng trữ tình, chân chất mà gợi cảm. Từ mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ đều tập trung vào miêu tả tình đồng chí, tình đồng đội của những người lính. Hầu hết họ đều là nông dân, dưới ánh mặt trời rạng soi của cách mạng mới khoác lên mình màu áo quân nhân, mới ra đi tìm lại độc lập tự do cho dân tộc. Quê hương của họ đều không phải là nơi làng quê trù phú:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
“Anh” đến từ vùng đất phèn nước mặn, “tôi” lại đến từ nơi có thiên nhiên cằn cỗi. Kết cấu sóng đôi, đối ứng và thành ngữ “nước mặn đồng chua” đã nói rõ tất cả về quê hương của “anh” và xóm làng của “tôi”. Hai con người khác nhau từ những nơi chốn khác nhau lại có cùng điểm chung: đều xuất thân từ miền quê nghèo khó, lam lũ. Chính điểm chung về cảnh ngộ ấy đã dẫn đến tình giai cấp giữa những người bộ đội, đồng thời là mảnh đất màu mỡ cho hạt giống của tình đồng chí nảy nở, phát triển. Tiếng gọi của Tổ quốc đã đưa những con người từ mọi miền đất nước, từ các phương trời “xa lạ” đền gần nhau, để họ được cùng đứng trong một hàng ngũ quân đội, để cùng “chẳng hẹn” mà lại quen nhau:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
“Anh với tôi đôi người xa lạ”. Từ đôi được tác giả sử dụng thay cho từ đồng nghĩa “hai” lại có tác dụng, có giá trị biểu đạt rất lớn. Đã là “đôi” tức là lúc nào cũng gắn bó chặt chẽ, lúc nào cũng hiểu lẫn nhau, và sợi dây tình cảm lúc nào cũng bền chặt, thắm thiết. Cách dùng từ ngữ giản dị, không hoa mỹ này của tác giả như một lời khẳng định, khẳng định tình thân, sự gắn bó giữa hai người lính, cái đẹp đẽ của tình người – tình đồng chí. “Anh với tôi” tưởng như “chẳng hẹn” nhưng thật ra là có hẹn: chung lòng yêu nước nồng nàn, chung ước mong, ý chí diệt giặc, chung trong một đơn vị; tưởng chừng “xa lạ” nhưng lại rất thân quen: đến từ hai miền quê khác nhau nhưng cùng sống trên mảnh đất Việt Nam, cùng chảy trong người dòng máu Việt Nam, là đồng bào của nhau, để rồi quen, để rồi trở thành bạn tốt:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
“Tri kỷ” là người bạn tốt, người này luôn hiểu thấu tâm sự của người kia. Sự nghiệp chung của đất nước đã xóa nhòa lằn ranh địa lý, khác biệt về văn hóa, đã đưa hai con người “xa lạ” đến đứng cạnh nhau trên mặt trận, nâng tình đồng cảm giải cấp giữa họ trở thành tình tri kỷ. Giữa hai người lính đã không còn khoảng cách nữa, không còn xa lạ nữa, tất cả như hòa làm một, đằng sau những khẩu súng sát cạnh, những mái đầu tựa vào nhau, và đằng sau những tấm chăn đắp chung. Tác giả sử dụng cấu trúc sóng đôi độc đáo trong câu thơ, cùng cách miêu tả hàm súc: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Nếu như “súng bên súng” nói về cái chung về hoàn cảnh, kẻ thù, chung một trận tuyến, một khao khát độc lập tự do thì “đầu sát bên đầu” còn là cái chung về tâm tư, tình cảm, sự quyện hòa tâm hồn của đôi bạn tâm giao. Hình ảnh giàu cảm xúc đó còn cả ngợi sự đoàn kết giữa hai anh bộ đội cụ Hồ: trong chiến đấu gian khổ vẫn kề vai sát cánh, trong khó khăn đời lính thì chia cho nhau từng lời tâm sự, san sẻ cho nhau hơi ấm chung chăn trong đêm khuya giá rét. Cái chăn đắp chung ấy có lẽ không chỉ là chiếc chăn bình thường, mà là chiếc chăn của tình đồng đội, chiếc chăn ấm nồng sưởi nóng tâm hồn người lính trong cái rét buốt da thịt triền miên, cái lạnh lùng vô tình của súng ống đạn bom. Đắp chung chăn, anh và tôi cùng chia nhau hơi ấm tâm hồn, tiếp thêm cho nhau sức mạnh tinh thần để rồi thêm nữa sự mạnh mẽ, cứng rắn. Tiếng gọi quê hương mới thật tha thiết làm sao! Nó đã khiến “đôi người xa lạ” có thể trở thành “đôi tri kỉ”. Một hình ảnh đối lập đẹp đến nao lòng. Bạn tri kỷ thật sự không dễ kiếm, có khi cả đời vẫn không tìm được một ai. Vậy mà hai anh lính lại thành tri kỉ của nhau, gắn bó với nhau nhanh chóng như vậy, bất chấp chiến trường nhiều kẻ địch, đường rừng lắm chông gai. Phải chăng khi đứng giáp ranh giữa sự sống và cái chết của chiến tranh, khi quên cả bản thân mình vì lợi ích chung, con người ta mới có những tình cảm tự nhiên và sâu sắc đến vậy? Phải chăng khi đất nước hoạn nạn, đứng trước nguy cơ đánh mất độc lập tự do thì tình bạn, tình tri kỉ mới sớm nảy nở nơi hai con người “xa lạ”? Câu thơ với hình ảnh giản dị mà gợi cảm. Đắp chăn chung, hai người bộ đội đã như anh em một nhà, chia ngọt sẻ bùi, tình thân thắm thiết đến mức không thể diễn tả nổi. Nói đến cái lạnh buốt của đêm rừng nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hơi ấm tỏa ra từ ngọn lửa mang tên “tình đồng đội” trong sâu thẳm trái tim, hơi ấm mà cả người lính lẫn người đều chẳng thể nào quên được: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Đó chính là cơ sở vững vàng, là nguồn cội của tình đồng chí.
Và, như một phép màu, sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng giai cấp, đồng tâm tư đã hóa thành tình cảm cao quý thiêng liêng giữa hai anh, họ gọi nhau bằng cái tên chung:
Đồng chí!
Câu thơ từ bảy, tám từ đột ngột rút lại thành hai tiếng “đồng chí” tha thiết, dâng trào cảm xúc. Không chỉ đóng vai trò là tiếng gọi quân đội trang nghiêm mà đó còn là tiếng gọi chân thành từ sâu thẳm con tim người lính chiến, là tiếng gọi reo vui của hai con người cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng, mục đích khi đứng dưới lá cờ Cách mạng; không chỉ là danh từ mà còn là một tính từ bộc lộ tình cảm, niềm xúc động xen lẫn lòng từ hào. Xúc động trước tình bạn tri giao cao đẹp, không lợi dụng, tính toán, hai người bạn gắn bó với nhau vô điều kiện, bởi cả hai có rất nhiều điểm chung: từ xuất thân, cảnh ngộ đến lòng căm giặc đến chung một tình cảm, một tấm chăn. Tự hào khi tình cảm cao đẹp nay đã được nâng lên thành một thứ thiêng liêng và quý giá hơn: tình đồng chí. Là kết tinh, tinh hoa của mọi thứ: tình người, cao hơn tình người là tình giai cấp, cao hơn tình giai cấp là tình bạn, tình tri kỷ, và trên cả tình tri kỷ chính là tình đồng chí. Hai tiếng “đồng chí” mới thiêng liêng làm sao, mới tha thiết làm sao. Gọi nhau là “đồng chí”, anh với tôi dương như không còn nữa những khác nhau về văn hóa, sự chênh lệch tuổi tác, những e dè của hai con người đến từ hai phương trời khác biệt. Các cá thể khác nhau như quyện hòa làm một, trở thành một khối với tình đoàn kết vững chắc. Tuy chỉ có hai tiếng ngắn ngủi nhưng câu thơ lại đóng vai trò quan trọng trong bố cục toàn bài. Nó đánh dấu cột mốc mới trong mạch cảm xúc của tác giả, bao hàm nhiều suy nghĩ sâu xa, nhiêu tư tưởng mang tầm triết lý. Như nét chấm phá tuyệt vời trong bức tranh thủy mặc, như nốt nhạc nhấn âm trong bản giao hưởng bằng lời thơ, hai tiếng “đồng chí” đã đem lại cho bài thơ trữ tình người lính một kết cấu mạch lạc chỉ có ở văn thơ chính luận. Tất cả đã làm cho giọng thơ như xao xuyến hơn, lời thơ như lưu luyến hơn, và bản hòa ca bất tận của tình người trở nên sâu sắc hơn, lắng đọng hơn.
Tình đồng đội chân thành đã giúp các anh lính vượt qua bao khó khăn, bao nỗi nhớ về quê hương, làng xóm:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những ngổn ngang trong tâm tư. Là những người lính dũng cảm kiên cường trong chiến đấu, bất khuất trước kẻ thù nhưng họ cũng là những con của làng quê mộc mạc, chân chất, bình dị. Và đã là người con của quê hương, xóm làng thì không ai đi xa mà lại không luôn nhớ về. Người chiến sĩ cũng vậy. Họ đã gác lại cái yên bình ấm êm của bản thân để ra đi cho niềm vui chung của toàn dân tộc. Nhưng bên trong những người lính chiến ấy có ngày nào nguôi ngoai nỗi nhớ về vùng đất thân thương? Ở đó có gian nhà, có mảnh ruộng, khu vườn là những gì quan trọng nhất đối với người nông dân. Nhưng giờ đây, đối với anh trai làng mặc áo lính, không còn gì quan trọng hơn sinh mệnh của đất nước, như Bác Hồ đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, anh đã tạm quên cái quý giá của cuộc đời mình để ra đi bảo vệ cái quý giá của đất nước giang sơn. Ruộng nương được anh gửi lại cho người bạn thân cày. Và gian nhà… tác giả Chính Hữu mới tài tình làm sao khi dùng chữ “không” khi miêu tả trong “gian nhà không”. Gian nhà không nhiều vật dụng, đơn sơ vì cái nghèo quay quắt lan tỏa vào đời sống từng người trong khoảng thời gian khó khăn ấy của đất nước; những từ không mà nhà thơ sử dụng lại không thảm thương bi đát như sự thực của nó, cũng không lạc quan hóa quá đáng cái khổ mà vừa phải, vừa giàu sức gợi hình, vừa mang tính gợi cảm. Ngôi nhà trống không vì đơn sơ, nay lại càng trống trải vì vắng bóng người trai cần cù tháo vát nhưng anh vẫn “mặc kệ” để lên đường nhập ngũ. Hai chữ “mặc kệ” hay chính là lòng quyết tâm, thái độ dứt khoát mạnh mẽ của anh lính với lòng yêu nước trào dâng. Và cũng chính lòng yêu nước đã làm cho hình tượng người lính cao cả như một vị anh hùng: dốc sức vì nước, không so đo, khư khư giữ lấy hạnh phúc cho riêng mình. Một sự hy sinh thầm lặng và vô cùng đáng quý.
Nhưng cho dù dứt khoát ra đi như vậy, anh trai làng ở trận tuyến vẫn không thể quên được hình bóng quê nhà thân thương:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Giếng nước gốc đa” vốn là biểu tượng đẹp của làng quê Việt Nam, nay còn là cội nguồn của nỗi nhớ thương xuất phát từ hai chiều. “Giếng nước gốc đa” không đơn thuần là cảnh vật quê hương mà còn là người thân, cha mẹ, anh em, họ hàng, là tất cả những người quan trọng trong cuộc đời người bộ đội. Dù “người ra đi đầu không ngoảnh lại” mặc cho “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Nguyễn Đình Thi) nhưng trong lòng “người ra đi” ấy vẫn đau đáu nhớ về cái “thềm nắng lá rơi đầy” quen thuộc, cũng như anh chiến sĩ dù “mặc kệ” cả căn nhà, bỏ lại cả ruộng nương nhưng bên trong anh, ngọn lửa nhớ thương chưa bao giờ bị dập tắt. Nhưng đó là nỗi nhớ từ nơi nao, là “giếng nước gốc đa” nhớ người đi hay chính là nỗi nhớ cồn cào khôn nguôi của người đi về “giếng nước gốc đa”? Người đi lính nhớ về người ở lại, kẻ ở lại lại nhung nhớ người ra đi; người ra trận luôn hướng tầm mắt về nơi quê nhà, người ở quê nhà lại luôn dõi theo bước chân người ra trận. Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn sâu nơi cả hai miền kí ức. Hậu phương ủng hộ tiền tuyến, luôn hướng về tiền tuyến, còn tiền tuyến lại như mạnh mẽ hơn trước niềm tin mãnh liệt của hậu phương. Một hình ảnh chân thực và cảm động. Qua đó, hình tượng người lính hiện lên thật anh hùng, mạnh mẽ dứt khoát trước tiếng gọi của non sông, song vẫn rất giàu tình nghĩa khi nhớ mãi về quê hương, nhà cửa, về người thân, bạn bè. Có lẽ trong lòng anh chiến sĩ vẫn còn day dứt hình ảnh mẹ già lúc tiễn con ra trận:
Chiều nay con ra trận
Lòng mẹ thương
Nhưng thôi tình chẳng bận
Đi đi mẹ lắng tin chờ
(Chế Lan Viên)
Và lời hỏi “Bao giờ trở lại. Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong” (Hoàng Trung Thông) nên cái hình bóng quê hương mới thật đậm sâu rõ nét như vậy. Chất đầy nỗi nhớ và niềm tin, hành trang ra trận của người lính như đầy hơn bao giờ hết.
Bên cạnh điểm tựa tình cảm vững vàng mang tên “quê hương” một lòng sâu sắc, người lính còn có thêm điểm tựa chắc chắn với tình bạn, tình đồng chí, cùng nhau vượt qua những khó khăn đời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Một bức tranh hiện xúc động hiện lên trước mắt ta, đầy rẫy những gian khổ chông gai như chính cuộc đời người lính. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn, âm điệu thơ bỗng trở nên chậm rãi, trầm lắng, như khiến tâm hồn người đọc cũng như chùng xuống trước bạo nhọc nhằn mà người bộ đội phải trải qua. Ra đi từ làng quê nghèo khổ, các anh lại gặp thêm cái nghèo nàn nơi quân đội. Mấy câu thơ thôi mà phản ánh được một thực trạng, một thời kỳ khó khăn của cả nước. Đất nước ta nghèo do bị thực dân bóc lột, và vì đất nước nghèo nên con người, và đến cả quân đội cũng nghèo theo. Bằng phép liệt kê và giọng điệu thơ bùi ngùi trầm lặng, Chính Hữu đã kể về những thiếu thốn của quân đội và của người lính Việt lúc bấy giờ: thiếu lương thực, thuốc men, thiếu cả quân trang, quân phục. Kể sao cho xiết hằng hà sa số những khó khăn kham khổ của các anh chiến sĩ thuở kháng Pháp? Từ những đợt sốt rét quái ác hành hạ cơ thể con người, dù mình “ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng vầng trán lại “ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo rách tả tơi vì dầm mưa dãi nắng, vì gai cào xước chỉ. Ta bỗng nhớ lại hai câu thơ:
Phi sốt rét bất thành bộ đội
Phi áo vá bất thành bộ đội
Mà thấy cay cay làm sao! Trong đời bộ đội có mấy ai là chưa từng nếm qua mùi vì đắng ngắt của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà quần áo vẫn lành lặn sau bao ngày xông pha chốn rừng thiêng nước độc đâu. Nhưng, mới thật kì diệu, người lính oai dũng vẫn không hề bị quật ngã bởi những cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của sức mạnh kì diệu đó chính là tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn khăng khít giữa hai người. Cùng nhau trải qua gian lao cay đắng, khó khăn tưởng như quá lớn không thể vượt qua đã được chia đôi trong khi sức mạnh tinh thần của họ lại được nhân lên nhiều lần sức mạnh tinh thần nâng lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác đi đến ngưỡng cao hơn. Từ “biết” mà nhà thơ sử dụng đã nói lên tất cả sự chia chia ngọt sẻ bùi của người lính. Tôi biết anh khi đang trong “cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Tôi biết anh áo rách vai, còn anh lại biết tôi “quần có vài mảnh vá”. Tôi hiểu cho tâm tình của anh, anh thông cảm cho nỗi lòng tôi. Và cũng vì không cô đơn trong khổ cực gian khó, hai người đồng chí mới bật tung được hàng bao cảm xúc ấm áp, tự nhiên trong hoàn cảnh mìn bom chất đống, súng rơi đạn lạc:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn ngay đến cả những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người lính lại rất giàu có về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghèo nhất, trong cảnh ngộ tăm tối nhất, thế mà nụ cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt giá”. Đó là cái buốt giá của thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu ngươi, gieo rắc khó khăn lên đời người lính? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ cười đáng quý nhất, vì được thắp lên trong gian nan ngặt nghèo, trong tình huống mà tưởng chừng không thể mỉm cười nổi, tựa như ánh bình minh chiếu sáng cả một vùng trời đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn băng đóng im lìm. Nụ cười ấy thật đáng yêu, đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy đã nói lên tất cả về người lính: tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng số phận. Đâu phải ai cũng có thể cười lạc quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước, con người, dân tộc? Cười ấy hoàn toàn không phải là cái cười thản nhiên lạnh lùng, mà là cười trong buốt giá để vượt qua cái buốt giá, để tâm hồn ấm lên, để lòng thấy tự tin hơn, vững vàng hơn. Hai người đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái rét tê tái của thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái thiếu thốn quan áo (áo rách vai, quần vá, không giày…) để đến được ngưỡng thăng hoa của tình cảm, của tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó: nắm lấy bàn tay nhau. Cao hơn hết thảy mọi cử chỉ quan tâm, mọi lời nói sẻ chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy lại chính là biểu tượng đẹp nhất của sự “thương nhau” giữa người với người, của tình đồng chí mộc mạc và thấm thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ đội nắm chặt tay nhau, truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt lên số phận, những niềm tin chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng thơ trầm lắng, cảm động khi nói về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí chân thành, đậm sâu, hồn hậu như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh trai cày ra trận. Bàn tay im lặng như lại nói lên được tình cảm thiêng liêng, tình đồng chí, tình người, tình anh em, Bàn tay thắt chặt tình thân, đốt cháy lên ngọn lửa đoàn kết, tinh thần diệt giặc lập công nơi người lính… Một cách biểu lộ tình cảm tự nhiên, xúc động, nó như làm ta nhớ lại câu thơ:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay ta đã nói
Biểu hiện của tình đồng chí càng được tô đậm hơn, khắc sâu hơn qua bức tranh chiến đấu cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với nghệ thuật tả thực sống động, hai câu trên như một lời tự sự nhưng lại mang màu sắc trữ tình và có giá trị miêu tả rất lớn. “Đêm nay rừng hoang sương muối” – xót xa thay cho cuộc đời người chiến sĩ! Đã trải qua bao nhiêu vất vả giờ lại bị thiên nhiên hoành hành bằng những đợt rét đậm rét hại cắt da cắt thịt; bằng những màn sương muối phủ kín cả một cánh rừng hoang. Tuy trong thời tiết như thế, các anh vẫn “đứng cạnh bên nhau “để mà “chờ giặc tới”. Thật vậy! Tình đồng chí giữa họ cao cả như thế đấy, không chỉ chia sẻ cùng nhau tâm tư nỗi nhớ, cùng nhau trải qua gian nan khổ cực của cuộc chiến, mà giờ đây còn kề vai sát cánh bên nhau trên cái nền lạnh giá của “rừng hoang sương muối”, cùng “chờ giặc tới” với tư thế hiên ngang, chủ động, anh hùng và tinh thần lạc quan, đỏ rực lửa tình đồng đội. Bức tranh chiến đấu ấy của người lính vừa mang hơi thở hiện thực và thời đại, vừa thấm đẫm cái trữ tình bay bổng. Con đường kháng chiến của dân tộc hãy còn dài, khi mà mỗi bước tiến trên con đường lại được đánh đổi bằng xương máu, bằng mạng sống bao con người ngã xuống, thì sự lạc quan cùng bao tình cảm ấm nồng đã tiếp thêm sức mạnh cho các anh đi đánh giặc, bên cạnh lòng yêu nước tràn đầy và ý chí chiến đấu bền bỉ. Tư thế ung dung cùng tình đồng chí bền vững của hai người lính khi cùng sát cánh bên nhau chờ để đối diện với giặc, để đánh tan chúng giành lại non sông đất nước đã tạo cho ta một niềm cảm phục sâu sắc. Giặc mà tới, không ít thì nhiều quan ta cũng phải có người hi sinh. Nhưng các anh đã lại “mặc kệ” chúng, “mặc kệ” cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào với bất kỳ ai, để cùng vui chung niềm vui người lính: tận hưởng không khí rừng đêm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mà ngay cả họ cũng là một phần của nó: “Đầu súng trăng treo”
Đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính. Trên nền xám lạnh của cánh rừng hoang tĩnh mịch đêm khuya rực lên hình ảnh tuyệt đẹp: vầng trăng tròn treo lủng lẳng trên đầu súng. Là người trực tiếp cầm súng tham gia cuộc chiến nên tác giả Chính Hữu mới có được cái nhìn tinh tế như vậy, mới có những liên tưởng phong phú và giàu chất bay bổng như vậy. Trời về khuya gần sáng, trăng xuống thấp dần, thấp dần đến khi trăng chạm vào đầu súng, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt diệu “đầu súng trăng treo” ắp đầy ý nghĩa biểu tượng: súng tượng trưng cho người lính, cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, cho sự chiến đấu hết mình không quản ngại hiểm nguy; còn trăng là sự vật xuất hiện nhiều trong thơ, là biểu tượng của người thi sĩ, của làng quê hiền hòa, của cái đẹp thanh bình, dịu dàng. Tính hiện thực đến từ cách quan sát, nhìn nhận của tác giả và chất trữ tình từ một tâm hồn thăng hoa càng làm cho hình ảnh thêm ý nghĩa, sống động: súng và trăng, là gần và xa, là cứng rắn và mượt mà, thực tại và mộng mơ, oai dũng và hiền hòa, là thi nhân và chiến sĩ. Súng và trăng còn là một cặp đồng chí: người lính cầm súng chiến đấu cho hòa bình, cho vầng trăng tri kỉ mãi tỏa ánh trăng trong trên nền quê hương. Hai hình ảnh đối lập tương phản này lại được nhà thơ đặt cạnh nhau, sóng đôi cùng nhau, và cũng lại cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp trong thơ văn kháng chiến, thể hiện rõ bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: cứng cỏi trong chiến đấu nhưng lại hiền hòa trong đời thường, ý chí sắt đá kiên cường nhưng tâm hồn cũng rất thơ mộng, bay bổng. Hình ảnh trăng lơ lửng treo đầu súng cũng là lời kết của toàn bài thơ, và lời kết này có giá trị rất lớn: khẳng định vẻ đẹp chân thực của cuộc chiến vệ quốc, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Cách mạng, động thời làm giảm bớt đi cái ác liệt thảm khốc của chiến tranh, trở thành tiêu biểu của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng.
Với giọng điệu thơ trữ tình, giàu cảm xúc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn rất cô đọng, chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình ảnh liên tưởng lãng mạn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm động tình đồng chí vững vàng của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dẫu còn gặp nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng chí của họ vẫn vượt lên hết thảy và trở thành tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân trọng nhất giữa những người bộ đội. Tác giả Chính Hữu đã thể hiện chân thực hình tượng người người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Bài thơ khép lại nhưng ấn tượng trong lòng thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt ta như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau. Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập lại nhưng những năm tháng gian khổ thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt ta như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập lại nhưng những năm tháng gian khổ mà hào hùng đó vẫn mãi là một chương quan trọng trong cuốn sách với những trang sử vàng vẻ vang của dân tộc. Ta lại càng ý thức hơn nữa lòng biết ơn dành cho các anh bộ đội cụ Hồ đã đổ bao xương máu để đất nước giang sơn được như ngày hôm nay. Cùng chung lý tưởng, ý chí, cảnh ngộ xuất thân, chung nhau trải qua gian nan ngặt nghèo, những người lính ấy đã sống, chiến đấu, và nếu có hy sinh, đều như một người anh hùng.
Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu.
Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đưa hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm “Đồng chí” trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.