Trang chủ » Học Văn » Chứng minh nhân định sau: Bài thơ “Tự tình 2” của Hồ Xuân Hương vừa nói lên bi kịch duyên phận, vừa cho thấy khát vọng sống, khát vong hạnh phúc của tác giả.
Chứng minh nhân định sau: Bài thơ “Tự tình 2” của Hồ Xuân Hương vừa nói lên bi kịch duyên phận, vừa cho thấy khát vọng sống, khát vong hạnh phúc của tác giả.
Từ xưa đến nay, hình tượng người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến trung đại đã trở thành một đề tài khá quen thuộc, gợi lên nhiều cảm hứng cho các thi sĩ xưa. Bằng niềm đồng cảm sâu sắc nơi sâu thẳm tâm hồn, nhiều tác phẩm ra đời chính là sự lên tiếng thay cho tâm sự thầm kín của người phụ nữ. Mà tiêu biểu là bài thơ ”Tự tình 2” nằm trong chùm thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ xuất sắc của Việt Nam, số lượng tác phẩm của bà để lại khá nhiều. Phong cách sáng tác chủ yếu là viết về thân phận, sự hi sinh và đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa. Có nhận định cho rằng: Bài thơ ”Tự tình 2” của Hồ Xuân Hương vừa nói lên bi kịch duyên phận, vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của tác giả.
”Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
”Đêm khuya” là khoảng thời gian mà vạn vật chìm vào giấc ngủ. Đó cũng là lúc con người gạt bỏ hết những trăn trở, âu lo phúc gia đình. Nhưng với những người phụ nữ cô đơn, thì đêm khuya chính là lúc con người ta chất chứa nhiều tâm sự nhất. Khi màn đêm bao lấy mọi vật, mọi ngõ ngách thì cũng là lúc bản thân phải tự đối diện với chính mình. Trong cái không gian tĩnh mịch ấy, bỗng văng vẳng tiếng trống canh. Mỗi lúc một dồn dập hơn, như đang thúc giục thời gian qua mau, gợi lên một điều đáng sợ đối với người phụ nữ đó chính là tuổi xuân dần qua đi. Giữa không gian ấy là hình ảnh người phụ nữ trơ trọi giữa bốn bề:
”Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Từ ”trơ” được đặt lên đầu cầu gây ấn tượng mạnh thể hiện sự cô đơn, lẻ loi, bẽ bàng của số phận. Thêm vào đó hai chữ hồng nhan nói lên vẻ đẹp dung nhan của người phụ nữ trong xã hội xưa. Cái ”hồng nhan” với ”nước non” không chỉ là sự dãi dầu mà còn là sự cay đắng gợi lên sự bạc phận, xót xa vì vậy nỗi đau càng thêm thấm thía, càng ngẫm càng đau. Nhịp thơ 1/3/3 nhấn mạnh sự cay đắng, bẽ bàng của chính tác giả.
Trong phút giây cô đơn ấy, tác giả đã tìm đến rượu để giải sầu nhưng say rồi, tỉnh lại càng thấy sầu hơn:
”Chén rượu hương đưa say lại tỉnh.”
”Say lại tỉnh” như vẽ ra vòng luẩn quẩn, bế tắc, say tỉnh, tỉnh say lặp đi lặp lại. Tác giả mong trong cơn say mình có thể giải tỏa được nỗi lòng dù chỉ trong thời gian ngắn. Cũng đỡ hơn là phải một mình đối diện với nỗi cô đơn đang giày xé tâm can. Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, của những ước mơ và hi vọng. Nhưng với Hồ Xuân Hương thì không vì hạnh phúc của bà lại xót xa đến mức khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Hồ Xuân Hương đang dần mất đi mà vẫn chưa được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động trong suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong bà. Sau nỗi cô đơn tuyệt vọng, phẫn uất đọng lại là tâm trạng ngán ngẩm, chán chường:
”Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Từ ”xuân” trong thơ Hồ Xuân Hương thật đa nghĩa. Từ xuân thứ nhất nghĩa là mùa xuân của tuổi trẻ. Từ xuân thứ hai chỉ mùa xuân của đất trời, mùa của vạn vật sinh sôi, nảy lộc. Từ ”lại” thứ nhất là phó từ chỉ sự lặp lại, còn từ lại thứ hai mang ý nghĩa cứ mỗi mùa xuân đến, thì tuổi trẻ của con người dần qua đi. Nhà thơ cảm thấy ngán ngẩm trước quy luật của tạo hóa. Tình duyên đã bị tan vỡ, lại còn bị chia thành nhiều mảnh cuối cùng chỉ còn lại tí con con. Câu thơ như một lời than thân trách phận, phải chăng Hồ Xuân Hương đã phải chịu một cuộc đời đầy bất hạnh khi phải chịu cảnh hai lần làm lẽ? Số phận làm vợ lẽ còn phải tả sao nam nhân phong kiến tam thê tứ thiếp là chuyện đương nhiên. Cái xã hội bất công phi nghĩa ấy đã làm cho tất cả những người phụ nữ đó phải đau khổ đâu chỉ có riêng bà. Hồ Xuân Hương lên tiếng phê phán cái xã hội đầy rẫy những bất công, ngang trái. Bắt họ phải chịu sống dưới cái khuôn khổ của tam tòng tứ đức. Mặc dù như vậy nhưng cũng từ đó những phẩm chất tốt đẹp của họ được bộc bạch rõ hơn.
Bài thơ đã thể hiện bản lĩnh của tác giả, rơi vào hoàn cảnh ấy nhiều người có thể phó mặc buông xuôi. Nhưng bà thì không thế, bà sẵn sàng lên tiếng để bảo vệ lẽ phải:
”Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”
Trước sự trớ trêu của số phận, nhà thơ vẫn luôn khao khát hạnh phúc, muốn cưỡng lại sự nghiệt ngã của số phận. Đặt cái hồng nhan nhỏ mọn, rẻ rúng lên trước cái nước non lớn lao kì vĩ như một sự thách thức đối với số phận và cuộc đời thể hiện cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Dường như hình ảnh vầng trăng có mối tương liên đặc biệt với thân phận tác giả. Nữ thi sĩ vẫn mong chờ một ngày nào đó vầng trăng sẽ tròn. Mượn hình ảnh thiên nhiên ấy, tác giả vừa cho thấy nỗi đau duyên phận, hẩm hiu dang dở vừa nói lên sự tin tưởng của mình vào một tương lai tốt đẹp hơn.
”Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
”Rêu từng đám” và ”đá mấy hòn” chỉ là những sự vật nhỏ bé mong manh. Nhưng lại có sức sống mãnh liệt, công phá chân mây mặt đất. Có lẽ như tâm hồn nhà thơ và hình ảnh thiên nhiên ấy có điểm vô cùng giống nhau. Biện pháp đảo ngữ ở cả hai câu thể kết hợp với động từ mạnh và phó từ chỉ hướng góp phần thể hiện rõ sự phẫn uất và thái độ phản kháng quyết liệt của nhà thơ. Nguyễn Du cũng có lần lên tiếng xót xa cho những con người hồng nhan nhưng bạc phận ấy:
”Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Tóm lại, bài thơ ”Tự tình 2” vừa thể hiện tâm trạng đau buồn, phẫn uất trước duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của chính tác giả. Hồ Xuân Hương phải là một nữ thi sĩ có tài năng độc đáo thì mới có thể xây dựng hình tượng, sử dụng ngôn từ một cách điêu luyện như thế!
Thảo Phương (5 năm trước.)
Level: 1
Số Xu: 2
cố lên nhé
Trúc Phong (5 năm trước.)
Level: 11
Số Xu: 18075
đề nghị chuyển thể loại thành học văn